1 Đ ức Giê-hô-va ôi! xin cứu chúng tôi, vì người nhơn đức không còn nữa, Và kẻ thành tín đã mất khỏi giữa con loài người.
Для дириґетна хору. На октаву. Псалом Давидів. (12-2) Спаси мене, Господи, бо нема вже побожного, з-поміж людських синів позникали вже вірні!
2 C húng đều dùng lời dối trá mà nói lẫn nhau, Lấy môi dua nịnh và hai lòng, Mà trò chuyện nhau.
(12-3) Марноту говорять один до одного, їхні уста облесні, і серцем подвійним говорять...
3 Đ ức Giê-hô-va sẽ diệt hết thảy các môi dua nịnh, Và lưỡi hay nói cách kiêu ngạo;
(12-4) Нехай підітне Господь уста облесливі та язика чванькуватого
4 T ức là kẻ nói rằng: Nhờ lưỡi mình chúng ta sẽ được thắng; Môi chúng ta thuộc về chúng ta: Ai là Chúa của chúng ta?
(12-5) тим, хто говорить: Своїм язиком будем сильні, наші уста при нас, хто ж буде нам пан?
5 N hơn vì người khốn cùng bị hà hiếp, và kẻ thiếu thốn rên siết, Đức Giê-hô-va phán: Bây giờ ta sẽ chổi dậy, Đặt người tại nơi yên ổn, là nơi người mong muốn.
(12-6) Через утиск убогих, ради стогону бідних тепер Я повстану, говорить Господь, поставлю в безпеці того, на кого розтягують сітку!
6 C ác lời Đức Giê-hô-va là lời trong sạch, Dường như bạc đã thét trong nồi dót bằng gốm, Luyện đến bảy lần.
(12-7) Господні слова слова чисті, як срібло, очищене в глинянім горні, сім раз перетоплене!
7 H ỡi Đức Giê-hô-va, Ngài sẽ gìn giữ các người khốn cùng, Hằng bảo tồn họ cho khỏi dòng dõi nầy.
(12-8) Ти, Господи, їх пильнуватимеш, і будеш навіки нас стерегти перед родом оцим!
8 K hi sự hèn mạt được đem cao lên giữa loài người, Thì kẻ ác đi dạo quanh tứ phía.
(12-9) Безбожні кружляють навколо, бо нікчемність між людських синів підіймається.