1 و َفِي صَباحِ اليَومِ التّالِي، اجتَمَعَ كِبارُ الكَهَنَةِ وَشُيُوخُ الشَّعبِ، وَتَشاوَرُوا لِكَي يَقتُلُوا يَسُوعَ.
Đến sáng mai, các thầy tế lễ cả và các trưởng lão trong dân hội nghị nghịch cùng Đức Chúa Jêsus để giết Ngài.
2 ف َقَيَّدُوهُ وَاقتادُوهُ وَسَلَّمُوهُ إلَى الوالي بِيلاطُسَ. يَهُوذا يَقتُلُ نَفسَه
Khi đã trói Ngài rồi, họ đem nộp cho Phi-lát, là quan tổng đốc.
3 ف َلَمّا رَأى يَهُوذا الَّذِي خانَ يَسُوعَ، أنَّهُمْ قَرَّروا الحُكْمَ عَلَى يَسُوعَ بِالمَوْتِ، نَدِمَ عَلَى ماَ فَعَلَهُ. فَأعادَ الثَّلاثِينَ قِطعَةً مِنَ الفِضَّةِ إلَى كِبارِ الكَهَنَةِ وَالشُّيُوخِ،
Khi ấy, Giu-đa, là kẻ đã phản Ngài, thấy Ngài bị án, thì ăn năn, bèn đem ba chục miếng bạc trả cho các thầy tế lễ cả và các trưởng lão,
4 و َقالَ لَهُمْ: «قَدْ أخطَأتُ بِتَسلِيمِي شَخصاً بَرِيئاً لِيُقتَلَ.» فَقالُوا لَهُ: «ما عَلاقَةُ هَذا بِنا؟ تَدَبَّرْ هَذا الأمْرَ بِنَفسِكَ.»
mà nói rằng: Tôi đã phạm tội vì nộp huyết vô tội! Song họ đáp rằng: Sự đó can gì đến chúng ta? Mặc kệ ngươi.
5 ف َألقَى يَهُوذا قِطَعَ النَّقْدِ فِي الهَيكَلِ ثُمَّ غادَرَ، وَذَهَبَ وَشَنَقَ نَفسَهُ.
Giu-đa bèn ném bạc vào đền thờ, liền trở ra, đi thắt cổ.
6 ف َأخَذَ كِبارُ الكَهَنَةِ قِطَعَ النَّقْدِ وَقالُوا: «لَيسَ مَسمُوحاً بِأنْ نَضَعَ هَذا المالَ فِي خَزِينَةِ الهَيكَلِ لِأنَّهُ ثَمَنُ حَياةِ إنسانٍ.»
Nhưng các thầy tế lễ cả lượm bạc và nói rằng: Không có phép để bạc nầy trong kho thánh, vì là giá của huyết.
7 ف َقَرَّرُوا أنْ يَشتَرُوا بِهِ حَقلَ الفَخّارِيِّ لِيَكونَ مَقبَرَةً لِلغُرَباءِ.
Rồi họ bàn với nhau dùng bạc đó mua ruộng của kẻ làm đồ gốm để chôn những khách lạ.
8 و َلِهَذا يُعرَفُ الحَقلُ بِاسْمِ «حَقلِ الدَّمِ» إلَى يَومِنا هَذا.
Nhơn đó, ruộng ấy đến nay còn gọi là "ruộng huyết."
9 و َبِهَذا تَمَّ ما قالَهُ اللهُ عَلَى لِسانِ إرمِيا النَّبِيِّ: «أخَذُوا الثَّلاثِينَ قِطعَةً مِنَ الفِضَّةِ، وَهُوَ الثَّمَنُ الَّذِي اتَّفَقَ بَنو إسْرائِيلَ عَلَى دَفعِهِ.
Bấy giờ được ứng nghiệm lời đấng tiên tri Giê-rê-mi đã nói rằng: Họ lấy ba chục bạc, là giá của Đấng đã bị định bởi con cái Y-sơ-ra-ên,
10 و َاشتروا بِهِ حَقلِ الفَخّارِيِّ، كَما أمَرَنِي الرَّبُّ.» يَسُوعُ أمامَ بِيلاطُس
và đưa bạc ấy mà mua ruộng của kẻ làm đồ gốm y như lời Chúa đã truyền cho ta.
11 و َوَقَفَ يَسُوعُ أمامَ الوالِي، فَسَألَهُ: «هَلْ أنتَ مَلِكُ اليَهُودِ؟» فَقالَ يَسُوعُ: «هُوَ كَما قُلْتَ بِنَفسِكَ.»
Đức Chúa Jêsus đứng trước quan tổng đốc, quan hỏi rằng: Có phải ngươi là Vua của dân Giu-đa không? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Thật như lời.
12 و َعِندَما كانَ كِبارُ الكَهَنَةِ وَالشُّيُوخُ يَشتَكُونَ عَلَيهِ لَمْ يِنطِقْ بِشَيءٍ.
Trong lúc các thầy tế lễ cả và các trưởng lão kiện Ngài, Ngài không đối đáp gì hết.
13 ث ُمَّ سَألَهُ بِيلاطُسُ: «ألا تَسمَعُ هَذِهِ التُّهَمَ الكَثِيرَةَ الَّتِي يَتَّهِمُونَكَ بِها؟»
Phi-lát bèn nói cùng Ngài rằng: Họ có nhiều điều làm chứng kiện ngươi, ngươi há không nghe đến sao?
14 و َلَكِنَّ يَسُوعَ لَمْ يُعطِ بيلاطُسَ رَدّاً علَى أيِّ كَلامٍ اتَّهَموهُ بِهِ. فَكانَ بِيلاطُسُ يَتَعَجَّبُ مِنْ صَمتِهِ. فَشَلُ بِيلاطُسَ في إطلاقِ يَسُوع
Song Đức Chúa Jêsus không đáp lại một lời gì, đến nỗi làm cho quan tổng đốc lấy làm lạ lắm.
15 و َكانَ الوالِي مُعتاداً فِي عِيدِ الفِصْحِ أنْ يُطلِقَ للنّاسِ سَجِيناً يَختارونَهُ.
Phàm đến ngày lễ Vượt qua, quan tổng đốc thường có lệ tha một tên tù tùy ý dân muốn.
16 و َكانَ هُناكَ سَجِينٌ مَشهُورٌ بِشَرِّهِ، اسْمُهُ باراباسُ.
Đang lúc ấy, có một tên phạm nổi tiếng, tên là Ba-ra-ba.
17 ف عِندَما اجتَمَعَ النّاسُ، قالَ بِيلاطُسُ لَهُمْ: «مَنْ تُرِيدُونَ أنْ أُطلِقَ لَكُمْ: يَسُوعَ المَدعُوَّ المَسِيحَ، أمْ باراباسَ؟»
Khi chúng đã nhóm lại, thì Phi-lát hỏi rằng: Các ngươi muốn ta tha người nào, Ba-ra-ba hay là Jêsus gọi là Christ?
18 ف َقَدْ عَرَفَ بِيلاطُسُ أنَّهُمْ سَلَّمُوا يَسُوعَ إلَيهِ بِسَبَبِ حَسَدِهِمْ.
Vì quan ấy biết bởi lòng ghen ghét nên chúng đã nộp Ngài.
19 و َبَينَما كانَ بِيلاطُسُ جالِساً عَلَى كُرسِيِّ القَضاءِ، أرسَلَتْ زَوجَتُهُ إلَيهِ رِسالَةً تَقُولُ: «لا تَفعَلْ شَرّاً بِهَذا الرَّجُلِ البَرِيءِ، لِأنِّي كُنتُ مُنزَعِجَةً طَوالَ اللَّيلِ بِسَبَبِ حُلْمٍ يَخُصُّهُ.»
Quan tổng đốc đương ngồi trên tòa án, vợ người sai thưa cùng người rằng: Đừng làm gì đến người công bình đó; vì hôm nay tôi đã bởi cớ người mà đau đớn nhiều trong chiêm bao.
20 و َلَكِنَّ كِبارَ الكَهَنَةِ وَالشُّيُوخَ أقنَعُوا جُمُوعَ النّاسِ بِأنْ يَطلُبُوا إطلاقَ سَراحِ باراباسَ، وَقَتلَ يَسُوعَ.
Song các thầy tế lễ cả và các trưởng lão dỗ chúng hãy xin tha Ba-ra-ba và giết Đức Chúa Jêsus
21 ف َقالَ الوالِي: «أيُّ الاثنَينِ تُرِيدُونَ أنْ أُطلِقَ لَكُمْ؟» فَقالُوا: «باراباسَ.»
Quan tổng đốc cất tiếng hỏi rằng: Trong hai người nầy, các ngươi muốn ta tha ai? Chúng thưa rằng: Ba-ra-ba.
22 ف َسَألَهُمْ بِيلاطُسُ: «فَماذا أصنَعُ بِيَسُوعَ المَدعُوِّ المَسِيحِ؟» فَأجابُوا جَمِيعاً: «فَلْيُصلَبْ.»
Phi-lát nói rằng: Vậy, còn Jêsus gọi là Christ, thì ta sẽ xử thế nào? Chúng đều trả lời rằng: Đóng đinh nó trên cây thập tự!
23 ف َقالَ لَهُمْ بِيلاطُسُ: «لِماذا؟ ما جَريمَتُهُ؟» لَكِنَّهُمْ صَرَخُوا أكثَرَ: «لِيُصلَبْ.»
Quan hỏi: Song người nầy đã làm việc dữ gì? chúng lại kêu la lớn hơn rằng: Đóng đinh nó trên cây thập tự!
24 و َلَمّا رَأى بِيلاطُسُ أنْ لا فائِدَةَ مِنْ مُحاوَلَتِهِ، بَلْ إنَّ الفَوضَى قَدْ بَدَأتْ، أخَذَ بَعضَ الماءِ وَغَسَلَ بِهِ يَدَيهِ أمامَ الجَمْعِ وَقالَ: «أنا غَيرُ مَسؤُولٍ عَنْ مَوتِ هَذا الرَّجُلِ، إنَّها مَسؤُولِيَّتُكُمْ أنتُمْ.»
Phi-lát thấy mình không thắng nổi chi hết, mà sự ồn ào càng thêm, thì lấy nước rửa tay trước mặt thiên hạ, mà nói rằng: Ta không có tội về huyết của người nầy; điều đó mặc kệ các ngươi.
25 ف َقالَ جَمِيعُ الشَّعبِ: «دَمُهُ عَلَينا وَعَلَى أولادِنا.»
Hết thảy dân chúng đều đáp rằng: Xin huyết người lại đổ trên chúng tôi và con cái chúng tôi!
26 ح ِينَئِذٍ أطلَقَ بِيلاطُسُ باراباسَ لَهُمْ، وَأمَرَ بِأنْ يُجلَدَ يَسُوعُ، وَأسلَمَهُ لِيُصلَبَ. الجُنُودُ يَستَهزِئُونَ بِيَسُوع
Phi-lát bèn tha tên Ba-ra-ba cho chúng; và khiến đánh đòn Đức Chúa Jêsus, đoạn giao Ngài ra để đóng đinh trên cây thập tự.
27 ث ُمَّ اقْتادَ جُنُودُ الوالِي يَسُوعَ إلَى قَصْرِ الوِلايَةِ، وَجَمَعُوا عَلَيهِ كَتيبَةُ الحُرّاسِ،
Lính của quan tổng đốc bèn đem Đức Chúa Jêsus vào công đường, và nhóm cả cơ binh vây lấy Ngài.
28 ف َنَزَعُوا ثِيابَهُ ثُمَّ ألبَسُوهُ رِداءً قِرمُزيَ اللَّونِ.
Họ cổi áo Ngài ra, lấy áo điều mà khoác cho Ngài.
29 و َجَدَلُوا لَهُ تاجاً مِنْ أغصانٍ شائِكَةٍ وَوَضَعُوهُ عَلَى رَأسِهِ، وَوَضَعُوا قَصَبَةً فِي يَدِهِ اليُمنَى، وَسَجَدُوا أمامَهُ مُستَهزِئينَ وَهُمْ يَقولونَ: «يَعيشُ مَلِكُ اليَهُودِ!»
Đoạn, họ đương một cái mão gai mà đội trên đầu, và để một cây sậy trong tay hữu Ngài; rồi quì xuống trước mặt Ngài mà nhạo báng rằng: Lạy Vua của dân Giu-đa.
30 ث ُمَّ بَصَقُوا عَلَيهِ، وَأخَذُوا القَصَبَةَ مِنْ يَدِهِ، وَبَدأوا يَضْرِبُونَهُ عَلَى رَأسِهِ.
Họ nhổ trên Ngài, và lấy cây sậy đánh đầu Ngài.
31 و َلَمّا فَرَغُوا مِنَ السُّخرِيَةِ بِهِ، نَزَعُوا عَنْهُ الثَّوبَ، وَألبَسُوهُ ثِيابَهُ، وَخَرَجُوا بِهِ لِيَصلِبُوهُ. يَسُوعُ عَلَى الصَّلِيب
Khi đã nhạo báng Ngài rồi, thì họ cổi áo điều ra mà mặc áo của Ngài lại, rồi đem Ngài đi đóng đinh trên cây thập tự.
32 ف َلَمّا خَرَجُوا، وَجَدُوا رَجُلاً مِنْ مَدِينَةِ قِيرِينَ اسْمُهُ سِمْعانُ، فَأجبَرُوهُ عَلَى حَملِ الصَّلِيبِ.
Khi họ đi ra, gặp một người ở trành Sy-ren tên là Si-môn; thì bắt người vác cây thập tự của Đức Chúa Giê-xu.
33 و َعِندَما وَصَلُوا إلَى مَكانٍ يُعرَفُ بِاسْمِ «الجُلْجُثَةَ،» أي «مَكانَ الجُمْجُمَةِ،»
Đã đi tới một chỗ gọi là Gô-gô-tha, nghĩa là chỗ cái Sọ,
34 أ عطُوا يَسُوعَ نَبيذاً مَمزُوجاً بِمادَةٍ مُرَّةٍ لِيَشْرَبَهُ. فَلَمّا ذاقَهُ، رَفَضَ أنْ يَشْرَبَ.
họ cho Ngài uống rượu trộn với mật đắng; song Ngài nếm, thì không chịu uống.
35 و َلَمّا صَلَبُوا يَسُوعَ، قَسَّمُوا ثِيابَهُ عَلَيهِمْ، وَألقَوْا قُرعَةً بَينَهُمْ.
Họ đã đóng đinh Ngài trên cây thập tự rồi, thì bắt thăm mà chia nhau áo xống của Ngài.
36 ث ُمَّ جَلَسُوا هُناكَ يَحرُسُونَهُ.
Rồi họ ngồi đó mà canh giữ Ngài.
37 و َعَلَّقُوا فَوقَ رَأسِهِ لافِتَةً كُتِبَ عَلَيها: «هَذا يَسُوعُ، مَلِكُ اليَهُودِ،» بِاعتِبارِها تُهْمَتَهُ.
Phía trên đầu Ngài họ để cái bảng đề chữ chỉ về án Ngài, rằng: Người Nầy Là Jêsus, Vua Dân Giu-đa.
38 و َصُلِبَ مَعَ يَسوعَ مُجرِمانِ، واحِدٌ عَنْ يَمِينِهِ وَآخَرُ عَنْ يَسارِهِ.
Cũng lúc đó, họ đóng đinh hai tên trộm cướp với Ngài, một tên ở cây thập tự bên hữu, một tên ở cây thập tự bên tả.
39 و َكانَ المارُّونَ يَشْتِمُونَهُ، وَيَهُزُّونَ رُؤُوسَهُمْ
Những kẻ đi ngang qua đó chê cười Ngài, lắc đầu,
40 و َيَقولونَ: «أنتَ يا مَنْ سَتَهدِمُ الهَيكَلَ وَتَبنِيهِ فِي ثَلاثَةِ أيّامٍ، إنْ كُنتَ ابْنَ اللهِ، فَخَلِّصْ نَفسَكَ، وَانزِلْ عَنِ الصَّلِيبِ!»
mà nói rằng: Ngươi là kẻ phá đền thờ và dựng lại trong ba ngày, hãy cứu lấy mình đi! Nếu ngươi là Con Đức Chúa Trời, hãy xuống khỏi cây thập tự!
41 و َكَذَلِكَ سَخِرَ بِهِ كِبارُ الكَهَنَةِ وَمُعَلِّمُو الشَّرِيعَةِ وَالشُّيُوخُ وَقالُوا:
Các thầy tế lễ cả, các thầy thông giáo và các trưởng lão cũng nhạo Ngài rằng:
42 « خَلَّصَ غَيرَهُ، لَكِنَّهُ لا يَستِطِيعُ أنْ يُخَلِّصَ نَفْسَهُ! هُوَ مَلِكَ بَني إسْرائِيلَ! فَلْيَنزِلْ عَنِ الصَّلِيبِ الآنَ فَنُؤْمِنَ بِهِ!
Nó đã cứu kẻ khác mà cứu mình không được. Nếu phải Vua dân Y-sơ-ra-ên, bây giờ hãy xuống khỏi cây thập tự đi, thì chúng ta mới tin.
43 و َضَعَ ثِقَتَهُ بِاللهِ، فَلْيُنقِذْهُ اللهُ الآنَ إنْ أرادَهُ فِعلاً. أفَلَمْ يَقُلْ: ‹أنا ابْنُ اللهِ›؟»
Nó nhờ cậy Đức Chúa Trời; nếu Đức Chúa Trời yêu nó thì bây giờ Ngài phải giải cứu cho, vì nó đã nói rằng: Ta là Con Đức Chúa Trời.
44 و َكَذَلِكَ المُجرِمانِ المَصلُوبانِ مَعْهُ كانا يَشتِمانِهِ بِكَلامٍ مُشابِهٍ. مَوتُ يَسُوع
Hai tên trộm cướp bị đóng đinh trên cây thập tự với Ngài cũng nhiếc móc Ngài như vậy.
45 و َمِنَ السّاعَةِ الثّانِيَةَ عَشْرَةَ ظُهْراً، خَيَّمَ الظَّلامُ عَلَى كُلِّ الأرْضِ حَتَّى السّاعَةِ الثّالِثَةِ بَعدَ الظُّهرِ.
Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt.
46 و َنَحْوَ السّاعَةِ الثّالِثَةِ، صَرَخَ يَسُوعُ بِصَوتٍ عالٍ وَقالَ: «إيلِي، إيلِي، لَما شَبَقْتَنِي؟» أي: «إلَهي، إلَهي، لِماذا تَرَكْتَنِي؟»
Ước chừng giờ thứ chín, Đức Chúa Jêsus kêu tiếng lớn lên rằng: Ê-li, Ê-li lam-ma sa-bách-ta-ni? nghĩa là: Đức Chúa Trời tôi ơi! Đức Chúa Trời tôi ơi! sao Ngài lìa bỏ tôi?
47 و َلَمّا سَمِعَهُ بَعضُ الواقِفِينَ هُناكَ، قالُوا: «إنَّهُ يُنادِي إيلِيّا!»
Có mấy người đứng đó, nghe kêu, thì nói rằng: Nó kêu Ê-li.
48 ث ُمَّ أسرَعَ أحَدُ الواقِفِينَ هُناكَ، وَأخَذَ إسْفَنجَةً وَغَمَسَها بِالخَلِّ، وَوَضَعَها عَلَى قَصَبَةٍ طَويلَةٍ، وَقَدَّمَها لَهُ لِيَشْرَبَ.
Liền có một người trong bọn họ chạy lấy một miếng bông đá, và thấm đầy dấm, để trên đầu cây sậy mà đưa cho Ngài uống.
49 أ مّا الباقُونَ فَكانُوا يَقُولُونَ: «لِنَنتَظِرْ وَنَرَ إنْ كانَ إيلِيّا سَيَأتِي لِيُنقِذَهُ!»
Nhưng kẻ khác thì lại nói rằng: Hãy để vậy, coi thử có Ê-li đến giải cứu nó chăng.
50 ث ُمَّ صَرَخَ يَسُوعُ ثانِيَةً بِصَوتٍ مُرتَفِعٍ، وَأسلَمَ الرُّوحَ.
Đức Chúa Jêsus lại kêu lên một tiếng lớn nữa, rồi trút linh hồn.
51 ف َانشَقَّتْ سِتارَةُ الهَيكَلِ إلَى نِصْفَينِ مِنْ فَوقٍ إلَى أسفَلِ، وَاهتَزَّتِ الأرْضُ، وَتَشَقَّقَتِ الصُّخُورُ،
Và nầy, cái màn trong đền thờ, bị xé ra làm hai từ trên chí dưới, đất thì rúng động, đá lớn bể ra,
52 و َانفَتَحَتِ القُبُورُ، وَقامَتْ أجسادُ كَثِيرِينَ مِنَ المؤمِنينَ المُقَدَّسينَ الَّذِينَ كانُوا قَدْ ماتُوا.
mồ mả mở ra, và nhiều thây của các thánh qua đời được sống lại.
53 و َبَعْدَ أنْ قامَ يَسُوعُ، خَرَجَتْ تِلْكَ الأجسادُ مِنْ قُبُورِها، وَدَخَلَتْ إلَى المَدِينَةِ المُقَدَّسَةِ، وَظَهَرَتْ لِكَثِيرِينَ.
Sau khi Đức Chúa Jêsus đã sống lại, các thánh đó ra khỏi mồ mả, đi vào thành thánh, và hiện ra cho nhiều người thấy.
54 أ مّا الضّابِطُ الرُّومانِيُّ، وَالحُرّاسُ الَّذِينَ كانُوا يَحرُسُونَ جَسَدَ يَسُوعَ، فَلَمّا رَأَوْا الزَّلْزَلَةَ وَالأحداثَ الأُخرَى، ارتَعَبُوا جِدّاً وَقالُوا: «كانَ هَذا حَقّاً ابْنَ اللهِ!»
Thầy đội và những lính cùng với người canh giữ Đức Chúa Jêsus, thấy đất rúng động và những điều xảy đến, thì sợ hãi lắm, mà nói rằng: Thật người nầy là Con Đức Chúa Trời.
55 و َكانَتْ هُناكَ نِساءٌ يَقِفْنَ وَيَنظُرْنَ مِنْ بَعِيدٍ، وَكُنَّ قَدْ تَبِعْنَ يَسُوعَ مِنَ الجَلِيلِ لِيَخدِمْنَهُ.
Vả, có nhiều người đờn bà đứng coi ở đàng xa, là người đã đi theo Đức Chúa Jêsus từ xứ Ga-li-lê để hầu việc Ngài.
56 ف َمِنْهُنَّ مَريَمُ المَجدَلِيَّةُ، وَمَريَمُ أُمُّ يَعقُوبَ وَيُوسُفَ، وَكَذَلِكَ أُمُّ ابْنَي زَبَدِيّ. دَفْنُ يَسُوع
Trong những đờn bà đó có Ma-ri Ma-đơ-len, Ma-ri, mẹ của Gia-cơ và Giô-sép, và mẹ hai con trai của Xê-bê-đê.
57 و َعِندَما جاءَ المَساءُ، جاءَ إلَى مَدِينَةِ القُدْسِ رَجُلٌ غَنِيٌّ اسْمُهُ يُوسُفُ، وَهوَ مِنْ بَلْدَةِ الرّامَةِ. وَقَدْ كانَ هُوَ أيضاً تِلمِيذاً لِيَسُوعَ.
Đến chiều tối, có một người giàu, ở thành A-ri-ma-thê, tên là Giô-sép, chính là một môn đồ của Đức Chúa Jêsus,
58 ف َذَهَبَ إلَى بِيلاطُسَ وَطَلَبَ مِنهُ جَسَدَ يَسُوعَ. فَأمَرَ بِيلاطُسُ بِإعطائِهِ الجَسَدَ.
đến nơi Phi-lát mà xin xác Đức Chúa Jêsus. Phi-lát bèn truyền cho.
59 ف َأخَذَ يُوسُفُ الجَسَدَ وَلَفَّهُ بِقُماشٍ جَدِيدٍ مِنَ الكَتّانِ،
Giô-sép lấy xác Ngài mà bọc trong tấm vải liệm trắng,
60 ث ُمَّ وَضَعَهُ فِي قَبْرِهِ الجَدِيدِ الَّذِي كانَ قَدْ حَفَرَهُ فِي الصَّخْرِ، ثُمَّ دَحرَجَ حَجَراً ضَخْماً عَلَى مَدخَلِ القَبْرِ وَذَهَبَ.
và đưa để trong một cái huyệt mới mà người đã khiến đục cho mình trong hòn đá; đoạn, lăn một hòn đá lớn đến trước cửa mồ, rồi đi.
61 و َكانَتْ مَريَمُ المَجدَلِيَّةُ، وَمَرْيَمُ الأُخرَى جالِسَتَينِ مُقابِلَ القَبْرِ. حِراسَةُ قَبْرِ يَسُوع
Có Ma-ri Ma-đơ-len và Ma-ri khác ở đó, ngồi đối ngang huyệt.
62 و َفِي اليَومِ التّالِي، بَعْدَ أنِ انتَهَى يَومُ الجُمُعَةِ، اجتَمَعَ كِبارُ الكَهَنَةِ وَالفِرِّيسِيِّونَ مَعَ بِيلاطُسَ،
Đến ngày mai (là ngày sau ngày sắm sửa), các thầy tế lễ cả và người Pha-ri-si cùng nhau đến Phi-lát
63 و َقالُوا لَهُ: «يا سَيِّدُ، نَتَذَكَّرُ أنَّ هَذا المُضِلُّ قالَ قَبلَ أنْ يَموتَ: «سَأقُومُ مِنَ المَوتِ بَعْدَ ثَلاثَةِ أيّامٍ.»
mà nói rằng: Thưa Chúa, chúng tôi nhớ người gian dối nầy, khi còn sống, có nói rằng: Khỏi ba ngày thì ta sẽ sống lại.
64 ف َاصدِرْ أمراً بِحِراسَةِ القَبْرِ حَتَّى اليَومِ الثّالِثِ، حَتَّى لا يَأتِيَ تَلامِيذُهُ وَيَسرِقُوا الجَسَدَ ثُمَّ يَقُولُوا للنّاسِ: ‹لَقَدْ قامَ مِنَ المَوتِ.› فَيَكونَ هَذا الضَّلالُ أسوَأ مِنَ الضَّلالِ الأوَّلِ.»
Vậy, xin hãy cắt người canh mả cẩn thận cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đồ nó đến lấy trộm xác đi, rồi nói với chúng rằng: Ngài đã từ kẻ chết sống lại. Sự gian dối sau đó sẽ tệ hơn sự gian dối trước.
65 ف َقالَ لَهُمْ بِيلاطُسُ: «خُذُوا حُرّاساً مِنَ الجُنْدِ، وَاذْهَبُوا وَتَأكَّدُوا مِنْ كُلَّ شَيءٍ بِمَعرِفَتِكُمْ.»
Phi-lát nói với họ rằng: Các ngươi có lính canh; hãy đi canh giữ theo ý các ngươi.
66 ف َذَهَبُوا وَضَبَطُوا القَبْرِ. وَوَضَعُوا خَتْماً عَلَى الحَجَرِ، كَما أقامُوا حُرّاساً مِنَ الجُنْدِ عَلَيهِ.
Vậy, họ đi, niêm phong mả Ngài lại, cắt lính canh giữ, lấy làm chắc chắn lắm.