ﺍﻟﻤﻠﻮﻙ ﺍﻷﻭ 1 ~ I Các Vua 1

picture

1 و َكبِرَ المَلِكُ داوُدُ فِي السِّنِّ، وَكانَ يَبرُدُ كَثِيراً. فَكانَ خُدّامُهُ يُغَطُّونَهُ بِبَطّانِيّاتٍ، لَكِنَّهُ ظَلَّ يَشعُرُ بِالبَردِ.

Vua Đa-vít đã già; tuổi cao; và mặc dầu người ta đắp áo cho người, cũng không thể ấm được.

2 ف َقالَ لَهُ خُدّامُهُ: «سَنَجِدُ لَكَ يا مَولانا المَلِكَ امْرأةً شابَّةً تَعتَنِي بِكَ. مَهَمَّتُها أنْ تَضطَجِعَ إلَى جِوارِكَ، فَتَشْعُرَ بِالدِّفءِ يا مَولانا المَلِكَ.»

Các tôi tớ người nói với người rằng: Xin tìm cho vua chúa tôi một gái trẻ đồng trinh, để hầu hạ vua và săn sóc vua. Nàng sẽ nằm trong lòng vua, thì vua chúa tôi có thể ấm được.

3 ف َراحُوا يُفَتِّشُونَ فِي كُلِّ مَكانٍ فِي إسْرائِيلَ عَنْ فَتاةٍ جَمِيلَةٍ. فَوَجَدُوا فَتاةً اسْمُها أبِيشَجُ، مِنْ مَدِينَةِ شُونَمَ. فَأحضَرُوها إلَى المَلِكِ.

Vậy người ta tìm trong khắp địa phận Y-sơ-ra-ên một người gái trẻ đẹp, và gặp được A-bi-sác, người Su-nem, dẫn nàng đến cùng vua.

4 و َكانَتْ فَتاةً رائِعَةَ الجَمالِ، فَرَعَتِ المَلِكَ وَخَدَمَتْهُ. وَلَكِنَّ المَلِكَ لَمْ يُعاشِرْها مُعاشَرَةَ الأزواجِ.

Người gái trẻ này rất là lịch sự. Nàng săn sóc và hầu hạ vua; nhưng vua không thân cận nàng.

5 و َرَفَّعَ أدُونِيّا ابْنُ حَجِّيتَ نَفْسَهُ طَمَعاً فِي المُلْكِ. فَخَصَّصَ عَرَبَةً مَلَكِيَّةً لَهُ وَخُيُولاً وَخَمْسِينَ رَجُلاً يَركُضُونَ فِي المَوكِبِ أمامَهُ.

Vả, A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít, tự tôn mà rằng: Ta sẽ làm vua. Người sắm xe và quân kỵ, cùng năm mươi người chạy trước mặt mình.

6 و َلَمْ يَكُنْ أبُوهُ داوُدُ قَدْ أغْضَبَهُ يَوماً بِأنْ يُحاسِبَهُ عَلَى أيِّ شَيءٍ يَعْمَلُهُ. وَكانَ أيضاً وَسِيماً جِدّاً، وَوُلِدَ بَعْدَ أبْشالُومَ.

Cha người chẳng hề phiền lòng người mà hỏi rằng: Cớ sao mầy làm như vậy? Vả lại, A-đô-ni-gia rất đẹp, sanh ra kế sau A

7 و َعَلِمَ يوآبُ بنُ صُرُوِيَّةَ وَالكاهِنُ أبِياثارُ بِنَواياهُ، فَوافَقا عَلَى أنْ يُساعِداهُ فِي مَسعاهُ.

Người bàn tính với Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia và với thầy tế lễ A-bia-tha; hai người theo phe A-đô-ni-gia và giúp đỡ người.

8 ل َكِنَّ عِدَّةَ رِجالٍ لَمْ يُطاوِعُوا أدُونِيّا عَلَى ذَلِكَ، وَظَلُّوا عَلَى وَلائِهِمْ لِداوُدَ. وَهُمُ الكاهِنُ صادُوقُ، وَبَناياهُو بْنُ يَهُوياداعَ، وَالنَّبِيُّ ناثانُ، وَشَمْعَى وَرِيعِي، وَحَرَسُ داوُدَ الخاصُّ.

Nhưng thầy tế lễ Xa-đốc và Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, Na-than, thầy tiên tri, Si-mê -i, Rê -i, và các dõng sĩ của Đa-vít không theo phe A-đô-ni-gia.

9 و َذاتَ يَومٍ، ذَهَبَ أدُونِيّا إلَى صَخرَةِ الزّاحِفَةِ قُربَ عَينِ رُوجَلَ، وَقَدَّمَ غَنَماً وَبَقَراً وَعُجُولاً مُسَمَّنَةً ذَبِيحَةَ سَلامٍ. وَدَعا إخْوَتَهُ، بَقِيَّةَ أبناءِ المَلِكِ داوُدَ، وَجَمِيعَ المَسؤُولِينَ فِي يَهُوذا لِحُضُورِ هَذا الاحتِفالِ.

A-đô-ni-gia dâng những chiên, bò, và bò con mập bên hòn đá Xô-hê-lết, ở cạnh giếng E

10 ل َكِنَّهُ لَمْ يَدعُ حَرَسَ أبِيهِ الخاصَّ، أوْ أخاهُ سُلَيْمانَ أوْ بَناياهُو أوِ النَّبِيَّ ناثانَ. ناثانُ وَبَتْشَبَعُ يُناصِرانِ سُلَيْمان

Nhưng người chẳng mời Na-than, là đấng tiên tri, Bê-na-gia, các dõng sĩ, cùng Sa-lô-môn, em mình.

11 ف َلَمّا سَمِعَ ناثانُ، ذَهَبَ إلَى بَتشَبَعَ أُمِّ سُلَيْمانَ وَسَألَها: «أما سَمِعْتِ ما فَعَلَهُ أدُونِيّا ابْنُ حَجِّيتَ؟ قَدْ نَصَّبَ نَفسَهُ مَلِكاً دُونَ معرِفَةِ مَولانا المَلِكِ داوُدَ.

Bấy giờ, Na-than nói với Bát-Sê-ba, mẹ của Sa-lô-môn, mà rằng: Bà há chẳng hay rằng A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít, đã làm vua, mà Đa-vít, chúa ta, chẳng hay biết sao?

12 و َهَذا يُعَرِّضُ حَياتَكِ وَحَياةَ ابْنِكِ سُلَيْمانَ إلَى الخَطَرِ. لَكِنِّي سَأُقَدِّمُ لَكِ نَصِيحَةً سَتُنَجِّيكِ أنتِ وَابنَكِ إذا عَمِلْتِ بِها.

Thế thì, bây giờ, hãy nghe; tôi sẽ cho bà một kế để bà cứu mạng sống mình và mạng sống của Sa-lô-môn.

13 ا ذهَبِي إلَى المَلِكِ داوُدَ وَقُولِي لَهُ: ‹يا مَولايَ وَمَلِكِي، لَقَدْ قَطَعْتَ لِي وَعداً بِأنْ يَخلِفَكَ ابنِي سُلَيْمانُ عَلَى العَرشِ. فَلِماذا تُوَلِّي أدُونِيّا المُلكَ الآنَ؟›

Hãy đi ra mắt vua Đa-vít, và tâu rằng: O

14 ح ِينَئِذٍ، سَأدخُلُ وَأنتِ بَعدُ تَتَكَلَّمِينَ. وَبَعدَ أنْ تَذهَبِي، سَأُخبِرُ المَلِكَ بِكُلِّ ما حَدَثَ تأكيداً عَلَى كَلامِكِ.»

Trong lúc bà tâu với vua như vậy, thì chính tôi cũng sẽ đi vào sau, làm cho quả quyết các lời của bà.

15 ف َدَخَلَتْ بَتْشَبَعُ إلَى غُرفَةِ نَومِ المَلِكِ لِتَراهُ، وَكانَ المَلِكُ طاعِناً فِي السِّنِّ، وَكانَتْ أبِيشَجُ، الفَتاةُ الشُّونَمِيَّةُ، تَخدِمُهُ.

Vậy, Bát-Sê-ba đi đến cùng vua, tại trong phòng. Vua đã già lắm có A-bi-sác, người Su-nem, hầu hạ người.

16 ف انحَنَتْ بَتشَبَعُ أمامَ المَلِكِ. فَسَألَها المَلِكُ: «ما الأمرُ؟»

Bát-Sê-ba cúi mình xuống và lạy trước mặt vua. Vua hỏi rằng: Ngươi muốn chi?

17 ف َأجابَتْ بَتشَبَعُ: «مَولايَ، لَقَدْ حَلَفْتَ لِي بِإلَهِكَ بِأنَّ ابْنِيَ سُلَيْمانَ سَيَخلِفُكَ عَلَى العَرشِ وَيَتَوَلَّى الحُكمَ بَعدَكَ.

Bà tâu rằng: Chúa tôi ôi! chúa đã nhơn danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúa thề cùng con đòi của chúa rằng: Sa-lô-môn con trai ngươi sẽ trị vì kế ta, và nó sẽ ngồi trên ngôi ta.

18 و َالآنَ، ها هُوَ أدُونِيّا قَدْ نَصَّبَ نَفسَهُ مَلِكاً، دُونَ مَعْرِفَتِكَ أوْ الرُّجُوعِ إلَيكَ يا مَولايَ.

O

19 و َقَدْ أقامَ وَلِيمَةَ شَرِكَةٍ كَبِيرَةً. وَذَبَحَ بَقَراً وَعُجُولاً مُسَمَّنَةً وَغَنَماً بِكَثرَةٍ. وَدَعا جَمِيعَ أبنائِكَ ما عَدا سُلَيْمانَ، ابنِكَ الوَفِيِّ. وَدَعا أيضاً الكاهِنَ أبِياثارَ وَيُوآبَ قائِدَ جَيشِكَ.

Người lại có giết bò đực, bò tơ mập, và chiên rất nhiều, cũng có mời hết thảy các vương tử với A-bia-tha, thầy tế lễ, và Giô-áp, quan tổng binh; nhưng người không mời Sa-lô-môn, kẻ tôi tớ vua.

20 و َالآنَ يا مَولايَ وَمَلِكِي، عُيُونُ كُلِّ بَنِي إسْرائِيلَ مُتَّجِهَةٌ إلَيكَ، مُنتَظِرِينَ أنْ تُخبِرَهُمْ مَنِ الَّذِي سَيَخلِفُكَ عَلَى العَرشِ.

O

21 ف َإنْ لَمْ تَحسِمْ هَذا الأمْرَ قَبلَ وَفاتِكَ وَدَفنِكَ مَعَ آبائِكَ، سَنُحْسَبُ أنا وَسُلَيْمانَ ابْنِي مُجْرِمَيْنِ.»

Chẳng vậy, khi vua chúa tôi an giấc với các tổ phụ, thì tôi và con trai tôi là Sa-lô-môn sẽ bị xử như kẻ có tội.

22 و َبَينَما كانَتْ بَتْشَبَعُ لا تَزالُ تَتَكَلَّمُ مَعَ المَلِكِ، جاءَ النَّبِيُّ ناثانُ لِيَراهُ.

Bà đương còn tâu với vua, thì tiên tri Na-than đến.

23 ف َقالَ الخُدّامُ لِلمَلِكِ: «حَضَرَ النَّبِيُّ ناثانُ.» فَدَخَلَ إلَى المَلِكِ وَانحَنَى أمامَهُ.

Người ta đến thưa cùng vua rằng: Nầy có tiên tri Na-than. Na-than ra mắt vua, sấp mình xuống trước mặt người mà lạy.

24 و َقالَ: «يا مَولايَ وَمَلِكِي، أأنْتَ أصدَرْتَ مَرسُوماً مَلَكِيّاً بِأنْ يخلفكَ أدُونِيّا في المُلك؟ أقَرَّرْتَ أنْ يَحكُمَ أدُونِيّا الشَّعبَ الآنَ؟

và nói rằng: O

25 ل ِأنَّ أدُونِّيا قَدْ نَزَلَ اليَومَ إلَى الوادِي لِيُقَدِّمَ بَقَراً وَعُجُولاً مُسَمَّنَةً وَغَنَماً بِكَثْرَةٍ كَذَبائِحِ شَرِكَةٍ. وَقَدْ دَعا إلَى هَذا الاحتِفالِ كُلَّ أبنائِكَ الآخَرِينَ وَقادَةَ جَيشِكَ وَالكاهِنَ أبِياثارَ. وَها هُمُ الآنَ يَأكلُوُنَ وَيَشرَبُونَ مَعَهُ وَهُمْ يَهتِفُونَ: ‹يَعيشُ المَلِكُ أدُونِيّا!›

Thật vậy, ngày nay, người đã đi xuống giết bò, bò tơ mập, và chiên rất nhiều, cùng mời hết thảy các vương tử, quan tướng, và thầy tế lễ A-bia-tha; kìa, họ ăn uống tại trước mặt người, và la lên rằng: A-đô-ni-gia vạn tuế!

26 ل َكِنَّهُ لَمْ يَدعُنِي أنا وَلا الكاهِنَ صادُوقَ وَلا بَناياهُو بْنَ يَهُوياداعَ وَلا ابْنَكَ سُلَيْمانَ.

Còn tôi là kẻ tôi tớ vua, thầy tế lễ Xa-đốc, Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, và Sa-lô-môn, tôi tớ vua, thì người chẳng có mời.

27 ف َهَلْ فَعَلْتَ هَذا يا مَولايَ وَمَلِكِي دُونَ أنْ تُخبِرَنا نَحْنُ خُدّامَكَ؟ فَمَنْ هُوَ الَّذِي اختَرْتَهُ ليخلفَكَ في المُلْك؟»

Việc này há phải bởi vua chúa tôi mà ra? Và lại vua không cho các tôi tớ vua biết ai là người kế vua, phải ngồi trên ngai của vua chúa tôi.

28 ف َقالَ المَلِكُ داوُدُ: «قُلْ لِبَتْشَبَعَ أنْ تَدخُلَ!» فَدَخَلَتْ وَوَقَفَتْ أمامَ المَلِكِ.

Vua Đa-vít đáp rằng: Hãy gọi Bát-Sê-ba cho ta. Bà vào và đứng trước mặt vua.

29 ح ِينَئِذٍ، قَطَعَ المَلِكُ وَعداً بِقَسَمٍ فَقالَ: «أُقْسِمُ بِاللهِ الحَيِّ، الَّذِي أنقَذَنِي مِنْ كُلِّ خَطَرٍ وَضِيقٍ.

Đa-vít bèn thề mà rằng: Nguyện Đức Giê-hô-va hằng sống, là Đấng đã giải cứu mạng sống ta khỏi các hoạn nạn!

30 ق َدْ حَلَفْتُ لَكِ مِنْ قَبلُ بِاللهِ ، إلَهِ إسْرائِيلَ، وَقُلْتُ إنَّ سُلَيْمانَ ابْنَكِ سَيَكُونُ المَلِكَ بَعدِي وَيَجلِسُ عَلَى عَرشِي. وَاليَوَمَ أُنَفِّذُ وَعْدِيَ.»

Ta nhơn danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên mà thề cùng ngươi rằng: Quả hẳn Sa-lô-môn, con trai ngươi, sẽ trị vì kế ta, nó sẽ ngồi trên ngai thế cho ta; thì ngày nay ta sẽ làm hoàn thành điều đó.

31 ح ِينَئِذٍ، سَجَدَتْ بَتْشَبَعُ عَلَى الأرْضِ أمامَ المَلِكِ، وَقالَتْ: «أطالَ اللهُ عُمرَ مَولايَ المَلِكِ داوُدَ!» تَتويجُ سُلَيْمانَ مَلِكا

Bát-Sê-ba cúi mặt xuống đất và lạy trước mặt vua, mà tâu rằng: Nguyện vua Đa-vít, chúa tôi, vạn tuế!

32 ث ُمَّ قالَ المَلِكُ داوُدُ: «ادعُوا لِي الكاهِنَ صادُوقَ وَالنَّبِيَّ ناثانَ وَبَناياهُو بْنَ يَهُوياداعَ.» فَدَخَلَ ثَلاثَتُهُمْ لِمُقابَلَةِ المَلِكِ.

Đoạn, vua Đa-vít nói: Hãy gọi cho ta thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, và Bê-na-gia, con trai của Giê-hô-gia-đa. Mấy người ấy bèn ra mắt vua.

33 ف َقالَ لَهُمُ المَلِكُ: «خُذُوا مَعَكُمْ كِبارَ المَسؤُولِينَ، وَأركِبُوا سُلَيْمانَ ابْنِي عَلَى بَغلَتِي، وَخُذُوهُ إلَى عَينِ جِيحُونَ.

Rồi vua nói với họ rằng: Hãy đem các đầy tớ của chủ các ngươi theo, đỡ Sa-lô-môn, con trai ta, lên cỡi con la của ta, rồi đưa nó đến Ghi-hôn.

34 و َلْيَمْسَحْهُ الكاهِنُ صادُوقُ وَالنَّبِيُّ ناثانُ مَلِكَ إسْرائِيلَ الجَدِيدَ. وَانفُخُوا الأبواقَ وَاعلِنُوا: ‹يَحيَ المَلِكُ سُلَيْمانُ!›

Ở đó, thầy tế lễ Xa-đốc và tiên tri Na-than phải xức dầu cho người làm vua Y-sơ-ra-ên. Đoạn, các ngươi hãy thổi kèn lên mà họ rằng:

35 ث ُمَّ ارجِعُوا مَعَهُ إلَى هُنا، فَيَجلِسَ عَلَى عَرْشِي وَيَصِيرَ مَلِكاً مكاني. فَقَدِ اختَرْتُهُ لِيَحكُمَ إسْرائِيلَ وَيَهُوذا.»

Vua Sa-lô-môn vạn tuế! Các ngươi sẽ theo sau người mà ta đã lập làm vua của Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.

36 ف َأجابَ بَناياهُو بْنُ يَهُوياداعَ المَلِكَ: «آمِينَ! اللهُ إلَهُ مَولايَ المَلِكُ نَفسُهُ هُوَ الَّذِي قالَ هَذا!

Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa tâu cùng vua rằng: A-men! Giê-hô-va Đức Chúa Trời của vua chúa tôi, cũng phán định như vậy.

37 ن ُصَلِّي أنْ يَكُونَ اللهُ مَعَ سُلَيْمانَ كَما كانَ مَعَكَ يا مَولايَ وَمَلِكِي. بَلْ أنْ يُعَظِّمَ اللهُ مَملَكَةَ سُلَيْمانَ لِتَصِيرَ أقوَى وَأعظم مِنْ مَملَكَتِكَ يا مَولايَ وَمَلِكِي.»

Đức Giê-hô-va đã ở cùng vua chúa tôi thể nào, nguyện Ngài cũng ở cùng Sa-lô-môn thể ấy, và khiến ngôi người còn cao trọng hơn ngôi của vua Đa-vít, là chúa tôi!

38 ف َقامَ صادُوقُ الكاهِنُ وَناثانُ النَّبيُّ وَبَناياهُو بنُ يَهُوياداعَ وَالحَرَسُ المَلَكِيِّ، وَأركَبُوا سُلَيْمانَ عَلَى بَغلَةِ داوُدَ، وَذَهَبُوا مَعَهُ إلَى عَينِ جِيحُونَ.

Đoạn, thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, những người Kê-rê-thít và Phê-lê-thít, đều đi xuống, đỡ Sa-lô-môn lên cỡi con la của vua Đa-vít rồi đưa người đến Ghi-hôn.

39 و َأخَذَ الكاهِنُ صادُوقُ مَعَهُ زَيتاً مِنْ خَيمَةِ الاجْتِماعِ. وَسَكَبَ الزَّيتَ عَلَى رَأْسِ سُلَيْمانَ. وَنَفَخُوا الأبواقَ، وَهَتَفَ جَمِيعُ الشَّعبِ: «يَعيْشُ المَلِكُ سُلَيْمانُ!»

Thầy tế lễ Xa-đốc lấy cái sừng dầu trong Đền tạm, và xức cho Sa-lô-môn. Người ta thổi kèn, cả dân sự đều hô lên rằng: Vua Sa-lô-môn vạn tuế!

40 ث ُمَّ تَبِعَ جَمِيعُ الشَّعبِ سُلَيْمانَ إلَى داخِلِ المَدِينَةِ وَهُمْ مُبتَهِجُونَ ابتِهاجاً عَظِيماً. وَكانُوا يَعْزِفُونَ النّاياتِ، حَتَّى اهْتَزَّتِ الأرْضُ مِنْ أصْواتِهِمْ.

Chúng đều theo người đi lên, thổi sáo, và vui mừng khôn xiết, đến nỗi đất rúng động bởi tiếng la của họ.

41 ف ِي هَذِهِ الأثناءِ، كانَ أدُونِيّا وَضُيُوفُهُ قَدْ فَرِغُوا لِلتَّوِّ مِنْ تَناوُلِ الطَّعامِ. فَسَمِعُوا صَوتَ الأبواقِ. فَقالَ يُوآبُ: «ما هَذا الضَّجِيجُ؟ وَما الَّذِي يَحْدُثُ فِي المَدِينَةِ؟»

A-đô-ni-gia và hết thảy kẻ dự tiệc với mình đều nghe tiếng này khi vừa ăn xong. Lúc Giô-áp nghe tiếng kèn, thì nói: Sao trong thành có tiếng xôn xao ấy?

42 و َبَينَما كانَ يُوآبُ ما يَزالُ يَتَكَلَّمُ، وَصَلَ الكاهِنُ يُوناثانُ بْنُ أبِياثارَ. فَقالَ لَهُ أدُونِيّا: «تَعالَ إلَى هُنا! أنتَ رَجُلٌ نَبِيلٌ، وَتُبَشِّرُ بِخَيرٍ.»

Người hãy còn nói, kìa Giô-na-than, con trai thầy tế lễ A-bia-tha, chợt đến. A-đô-ni-gia nói với người rằng: Hãy vào, vì ngươi là một tay dõng sĩ, chắc ngươi đem những tin lành.

43 ل َكِنَّ يُوناثانَ أجابَ: «لا، لَيسَ لَكَ! فَإنَّ المَلِكَ داوُدَ جَعَلَ سُلَيْمانَ مَلِكاً.

Nhưng Giô-na-than đáp với A-đô-ni-gia rằng: Thật trái hẳn. Vua Đa-vít, chúa chúng ta, đã lập Sa-lô-môn làm vua.

44 و َأرسَلَ مَعَهُ المَلِكُ داوُدُ الكاهِنَ صادُوقَ وَالنَّبِيَّ ناثانَ وَبَناياهُو بْنَ يَهُوياداعَ وَالحَرَسَ المَلكِيِّ. وَأركَبُوا سُلَيْمانَ عَلَى بَغلَةِ المَلِكِ.

Vua có sai thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, người Kê-rê-thít cùng người Phê-lê-nít đi theo người, và họ đã đỡ người lên cỡi con la của vua.

45 ث ُمَّ مَسَحَ الكاهِنُ صادُوقُ وَناثانُ النَّبِيُّ سُلَيْمانَ عِندَ عَينِ جِيحُونَ. وَبَعدَ ذَلِكَ دَخَلُوا المَدِينَةَ مُبتَهِجِينَ حَتَّى اهتَزَّتِ المَدِينَةُ مِنْ صَوتِهِمْ. وَهَذا هُوَ الضَّجِيجُ الَّذِي تَسمَعُهُ.

Đoạn, tại Ghi-hôn, thầy tế lễ Xa-đốc và tiên tri Na-than đã xức dầu cho người làm vua; họ đã từ đó trở lên cách reo mừng, và cả thành đều vang động. Đó là tiếng xôn xao mà các ông đã nghe.

46 ف َها قَدْ جَلَسَ سُلَيْمانُ عَلَى عَرشِ المَلِكِ.

Lại, Sa-lô-môn đã ngồi trên ngôi nước;

47 و َقَدْ هَنَّأ كِبارُ المَسؤُولِينَ المَلِكَ داوُدَ وَقالُوا لَهُ: ‹نُصَلِّي أنْ يَجعَلَ إلَهُكَ اسْمَ سُلَيْمانَ أكثَرَ شُهرَةً مِنَ اسْمِكَ، وَأنْ يَجْعَلَ مَملَكَتَهُ أعظَمَ مِنْ مَملَكَتِكَ!› وَحَتَّى المَلِكُ داوُدُ انحَنَى فِي سَرِيرِهِ أمامَ سُلَيْمانَ

các tôi tớ của vua đến chúc phước cho vua Đa-vít, chúa chúng ta, mà tâu rằng: Nguyện Đức Chúa Trời của vua làm cho danh Sa-lô-môn tôn vinh hơn danh của vua, và khiến cho ngôi người cao trọng hơn ngôi của vua! Rồi cúi lạy nơi giường mình;

48 و َقالَ: ‹لِيَتَبارَكِ اللهُ ، إلَهُ إسْرائِيلَ، الَّذِي أجلَسَ أحَدَ أولادِي عَلَى عَرشِي وَأطالَ عُمْرِي لأَرَى بِعَينِي هَذا اليَومَ.›»

và có nói như vầy: Đáng khen ngợi thay Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vì ngày nay Ngài có ban một người để ngồi trên ngôi của tôi mà mắt tôi xem thấy.

49 ف َخافَ جَميعُ ضُيُوفِ أدُونِيّا خَوفاً شَدِيداً وَأسرَعُوا بِالانصِرافِ.

Bấy giờ, hết thảy các người dự tiệc với A-đô-ni-gia đều bắt sợ hãi, đứng dậy, ai đi đường nấy.

50 و َخافَ أدُونِيّا أيضاً مِنْ سُلَيْمانَ. فَذَهَبَ إلَى المَذبَحِ وَأمسَكَ بِقَرْنَيهِ.

A-đô-ni-gia cũng sợ Sa-lô-môn hay điều đó, rằng: Nầy, A-đô-ni-gia sợ vua Sa-lô-môn; kìa người đã nắm các sừng bàn thờ.

51 ف َقالَ أحَدُهُمْ لِسُلَيْمانَ: «أدُونِيّا خائِفٌ مِنْكَ أيُّها المَلِكُ سُلَيْمانُ. وَها هُوَ فِي خَيمَةِ الاجْتِماعِ يَتَمَسَّكُ بِزَوايا المَذبَحِ وَيَقُولُ: ‹لِيَحلِفِ المَلِكُ سُلَيْمانُ إنَّهُ لَنْ يَقتُلَنِي!›»

Có người đến thuật cho Sa-lô-môn hay điều đó, rằng: Nầy, A-đô-ni-gia sợ vua Sa-lô-môn; kìa người đã nắm các sừng bàn thờ, mà nói rằng: Hôm nay, vua Sa-lô-môn hãy thề với tôi rằng vua sẽ không giết đầy tớ người bằng gươm.

52 ف َقالَ سُلَيْمانُ: «إنْ أظهَرَ أدُونِيّا أنَّهُ رَجُلٌ صالِحٌ، فَلَنْ تَسقُطَ حَتَّى شَعرَةٌ واحِدَةٌ مِنْ رَأْسِهِ. أمّا إذا فَعَلَ شَرّاً، فَسَيَمُوتُ.»

Sa-lô-môn đáp rằng: Nếu người ăn ở ra người tử tế, thì chẳng một sợi tóc nào của người sẽ rụng xuống đất; bằng có thấy sự ác nơi người, ắt người sẽ chết.

53 ث ُمَّ أرسَلَ المَلِكُ سُلَيْمانُ رِجالاً لِيأتُوا بِهِ مِنْ عِنْدِ المَذبَحِ وَلِيُحضِرُوهُ إلَيهِ. فَجاءُوا بِهِ إلَى المَلِكِ سُلَيْمانَ. فانحَنَى أدُونِيّا أمامَهُ. فَقالَ لَهُ سُلَيْمانُ: «اذْهَبْ إلَى بَيتِكَ.»

Vua Sa-lô-môn sai kẻ đem người xuống khỏi bàn thờ. A-đô-ni-gia đến sấp mình xuống trước mặt Sa-lô-môn; Sa-lô-môn bèn nói với người rằng: Hãy trở về nhà ngươi.