1 B ấy giờ, Sa-lô-môn vời đến mình, ở tại Giê-ru-sa-lem, các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, hết thảy các quan trưởng của chi phái, và những trưởng tộc của Y-sơ-ra-ên, đặng rước hòm giao ước của Đức Giê-hô-va từ thành của Đa-vít, tức là Si-ôn.
ثُمَّ اسْتَدْعَى المَلِكُ سُلَيْمانُ كُلَّ شُيُوخِ إسْرائِيلَ وَرُؤَساءِ العَشائِرِ، وَقادَةِ عائِلاتِ إسْرائِيلَ فِي مَدِينَةِ القُدْسِ. أرادَهُمْ سُلَيْمانُ أنْ يَنضَمُّوا إلَيهِ فِي إحضارِ صُنْدُوقِ عَهْدِ اللهِ مِنْ مَدِينَةِ داوُدَ إلَى الهَيكَلِ.
2 T rong lúc lễ, nhằm tháng Ê-tha-ninh, là tháng bảy, hết thảy người nam của Y-sơ-ra-ên đều nhóm lại cùng vua Sa-lô-môn.
فَجاءَ جَمِيعُ رِجالِ إسْرائِيلَ مَعاً إلَى المَلِكِ سُلَيْمانَ. كانَ هَذا أثناءَ عِيدُ السَّقائِفِ فِي شَهْرِ إيثانِيمَ: الشَّهْرِ السّابِعِ مِنَ السَّنَةِ.
3 K hi các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đã đến, thì những thầy tế lễ lấy hòm của Đức Giê-hô-va,
وَلَمّا وَصَلَ كُلُّ شُيُوخِ إسْرائِيلَ إلَى ذَلِكَ المَكانِ. وَأخَذَ الكَهَنَةُ صُنْدُوقَ العَهْدِ.
4 d ời đi luôn với Đền tạm. Những thầy tế lễ và người Lê-vi khiêng các đồ đó lên.
وَحَمَلُوا صُنْدُوقَ عَهْدِ اللهِ مَعَ خَيمَةِ الاجْتِماعِ وَالأشياءِ المُقَدَّسَةِ الَّتِي فِيها. حَمَلَها الكَهَنَةُ وَالَّلاوِيُّونَ.
5 V ua Sa-lô-môn và cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đã hiệp với người, và đứng trước hòm, giết bò và chiên làm của lễ rất nhiều, không thế đếm được.
وَاجتَمَعَ المَلِكُ سُلَيْمانُ وَكُلُّ بَنِي إسْرائِيلَ مَعاً أمامَ صُنْدُوقِ العَهْدِ. وَذَبَحُوا خِرافاً وَبَقَراً بِأعدادٍ لا تُحصَى مِنْ كَثْرَتِها.
6 N hững thầy tế lễ đem hòm giao ước của Đức Giê-hô-va đến nơi nó, trong nơi chí thánh, dưới cánh chê-ru-bin.
ثُمَّ وَضَعَ الكَهَنَةُ صُنْدُوقَ عَهدِ اللهِ فِي مَكانِهِ الصَّحِيحِ داخِلَ قُدْسِ الأقداسِ فِي الهَيكَلِ تَحتَ أجنِحَةِ المَلاكَينِ الكَرُوبَينِ.
7 V ì các chê-ru-bin giương cánh ra trên nơi để hòm, che thân trên hòm và các đòn khiêng.
فَظَلَّلَتْ أجْنِحَةُ المَلاكَينِ الكَرُوبَينِ الصُّنْدُوقَ، فَصارَ الكَروبانِ كَغِطاءٍ للصُّندُوقِ وَللقَضِيبَينِ اللَّذَينِ يُحمَلُ بِهِما.
8 C ác đòn khiêng dài, đến nỗi người ta, từ nơi thánh ở trước nơi chí thánh, có thể thấy được, nhưng ở ngoài thì chẳng thấy. Các đòn ấy ở đó cho đến ngày nay.
وَكانَ القُضيبانِ طَوِيلانِ حَتَّى كانَ بِمَقدُورِ الواقِفِ فِي القُدْسِ أمامَ قُدْسِ الأقداسِ أنْ يَرَى طَرَفَيهِما. لَكِنْ لَمْ يَكُنْ فِي مَقدُورِ مَنْ يَقِفُ خارِجاً أنْ يَراهُما. وَمازالَ القضِيبانَ هُناكَ حَتَّى هَذا اليَومِ.
9 T rong hòm chỉ có hai bảng đá mà Môi-se đã để, tại núi Hô-rếp, khi Đức Giê-hô-va lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên, lúc họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô.
وَلَمْ يَكُنْ فِي صُنْدُوقِ العَهْدِ إلّا اللَّوْحانِ الحَجَرِيّانِ اللَّذانِ وَضَعَهُما مُوسَى فِيهِ فِي حُورِيبَ. فَفِي ذَلِكَ المَكانِ قَطَعَ اللهُ عَهْداً مَعَ بَنِي إسْرائِيلَ بَعْدَ خُرُوجِهِمْ مِنْ مِصْرَ.
10 X ảy ra khi những thầy tế lễ đã ra khỏi nơi thành, bèn có mây đầy dẫy nhà của Đức Giê-hô-va,
وَلَمّا خَرَجَ الكَهَنَةُ مِنَ المَكانِ المُقَدَّسِ، مَلأتْ سَحابَةٌ بَيتَ اللهِ.
11 đ ến nỗi những thầy tế lễ vì có mây ấy không thể đứng đó mà hầu việc được, vì sự vinh quang của Đức Giê-hô-va đầy dẫy đền của Đức Giê-hô-va.
وَلَمْ يَسْتَطِعِ الكَهَنَةُ مُواصَلَةَ خِدمَتِهِمْ بِسَبِبِ السَّحابَةِ، لِأنَّ بَيْتَ اللهِ امتَلأ مِنْ مَجْدِ اللهِ.
12 B ấy giờ, Sa-lô-môn nguyện rằng: Đức Giê-hô-va có phán rằng Ngài ngự trong nơi tối tăm mờ mịt.
حِينَئِذٍ، قالَ سُلَيْمانُ: «اخْتارَ اللهُ أنْ يَسْكُنَ فِي السَّحابَةِ الكَثِيفَةِ.
13 H ỡi Đức Chúa Trời! tôi đã cất xong một cái đền dùng làm nơi ngự của Ngài, tức một nơi Ngài ở đời đời.
ها قَدْ بَنَيتُ هَيكَلاً بَدِيعاً لَكَ يا اللهُ، مَكاناً لِتَسكُنَ إلَى الأبَدِ فِيهِ.»
14 Đ oạn, vua xây lại, và chúc phước cho hội chúng Y-sơ-ra-ên. Cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đều đứng.
وَكانَ كُلُّ بَنِي إسْرائِيلَ واقِفِينَ هُناكَ. فَالتَفَتَ المَلِكُ سُلَيْمانُ وَطَلَبَ لَهُمُ البَرَكَةَ.
15 N gười nói rằng: Đáng ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vì từ miệng Ngài có phán hứa với Đa-vít, cha ta, và bởi tay Ngài đã làm ứng nghiệm lời ấy; Ngài phán rằng:
ثُمَّ صَلَّى فَقالَ: « اللهُ إلَهُ إسْرائِيلَ عَظِيمٌ. فَقَدْ صَنَعَ بِيَدِهِ ما قالَهُ لِداوُدَ أبِي. إذْ قالَ لِأبِي:
16 T ừ ngày ta đã đem Y-sơ-ra-ên ta ra khỏi Ê-díp-tô, ta không chọn thành nào trong các chi phái Y-sơ-ra-ên đặng cất tại đó một cái nhà cho danh ta ngự; nhưng ta đã chọn Đa-vít để người trị vì dân Y-sơ-ra-ên ta.
‹أخرَجْتُ شَعبِي إسْرائِيلَ مِنْ مِصْرَ. لَكِنِّي لَمْ أكُنْ قَدِ اختَرْتُ مَدِينَةً مِنْ بَينِ قَبائِلِ إسْرائِيلَ لِبِناءِ بَيْتٍ إكْراماً لاسْمِي. وَلَمْ أكُنْ قَدِ اختَرْتُ رَجُلاً لِيَرأسَ شَعبِي إسْرائِيلَ. أمّا الآنَ فَقَدِ اختَرْتُ داوُدَ لِيَرأسَ شَعبِي إسْرائِيلَ.›
17 V ả, Đa-vít, cha ta, có ý cất một cái đền cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
«أرادَ داوُدُ أبِي أنْ يَبنِيَ بَيْتاً مِنْ أجلِ اسْمِ اللهِ ، إلَهِ إسْرائِيلَ.
18 N hưng Đức Giê-hô-va có phán với Đa-vít, cha ta, rằng: Khi ngươi có ý xây đền cho danh ta, thì lấy làm thậm phải;
لَكِنَّ اللهَ قالَ لَهُ: ‹أنْتَ تَرغَبُ حَقّاً فِي أنْ تَبنِيَ بَيتاً مِنْ أجلِ اسْمِي. وَهَذِا حَسَنٌ.
19 s ong ngươi sẽ chẳng cất đền ấy đâu, bèn là con trai ngươi, do lòng ngươi sanh ra, sẽ cất đền cho danh ta.
لَكِنَّكَ لَسْتَ مَنْ سَيَبْنِي البَيْتَ، بَلِ ابنُكَ الَّذِي سَيُولَدُ لَكَ هُوَ مَنْ سَيَبْنِي البَيْتَ مِنْ أجلِ اسْمِي.›
20 V ậy, Đức Giê-hô-va đã làm ứng nghiệm lời Ngài phán; vì ta kế vị Đa-vít, cha ta, ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên, y như Đức Giê-hô-va đã hứa, và ta đã cất đền này cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
«وَهَكَذا حَقَّقَ اللهُ الوَعدَ الَّذِي قَطَعَهُ. فَها أنا خَلَفْتُ أبِي عَلَى العَرْشِ، وَأحكُمُ بَنِي إسْرائِيلَ حَسَبَ وَعْدِ اللهِ. وَها قَدْ بَنَيْتُ البَيْتَ إكْراماً لاسْمِ اللهِ ، إلَهِ إسْرائِيلَ.
21 T ại đó, ta đã dọn một chỗ để hòm; trong hòm có sự giao ước mà Ngài đã lập với tổ phụ chúng ta, khi Ngài đem họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô.
وَقَدْ هَيَّأْتُ مَكاناً فِي الهَيكَلِ لِصُنْدُوقِ عَهْدِ اللهِ، ذَلِكَ العَهْدِ الَّذِي قَطَعَهُ اللهُ مَعَ آبائِنا عِندَما أخرَجَهُمْ مِنْ مِصْرَ.»
22 K ế đó, Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của Đức Giê-hô-va, đối mặt cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, bèn giơ tay lên trời, mà rằng:
ثُمَّ وَقَفَ سُلَيْمانُ أمامَ مَذبَحِ اللهِ مُقابِلَ كُلِّ الشَّعبِ. وَبَسَطَ يَدَيهِ ناظِراً نَحْوَ السَّماءِ.
23 L ạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! hoặc trên trời cao kia, hoặc dưới đất thấp này, chẳng có một thần nào giống như Chúa. Chúa giữ sự giao ước và lòng nhơn từ với kẻ tôi tớ Chúa, là kẻ nào hết lòng đi ở trước mặt Chúa.
وَقالَ: «يا اللهُ ، يا إلَهَ إسْرائِيلَ، لَيْسَ إلَهٌ مِثلَكَ فِي السَّماءِ أوْ عَلَى الأرْضِ، يُحِبُّ شَعبَهُ الأوفِياءَ وَيَحفَظُ عَهْدَهُ مَعَهُمْ.
24 Đ ối cùng tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi, Chúa có giữ lời Ngài đã hứa với người. Thật, hễ điều chi miệng Chúa phán, thì tay Chúa đã làm hoàn thành, y như chúng tôi thấy ngày nay.
فَقَدْ قَطَعْتَ عَهْداً لِعَبْدِكَ داوُدَ، أبِي، وَوَفَيتَ بِهِ. بِفَمِكَ أنتَ قَطَعْتَ ذَلِكَ العَهْدَ. وَبِقُوَّتِكَ العَظِيمَةِ حَقَّقْتَهُ اليَوْمَ.
25 V ậy, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! ngày nay xin làm trọn lời Chúa đã hứa cùng tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi, rằng: Nếu con cháu ngươi cẩn thận các đường lối mình, đi ở trước mặt ta, y như ngươi đã đi, thì trước mặt ta sẽ chẳng hề thiếu một kẻ hậu tự ngươi đặng ngồi trên ngôi nước Y-sơ-ra-ên đâu.
وَالآنَ يا اللهُ ، يا إلَهَ إسْرائِيلَ، احفَظْ وُعُودَكَ الأُخرَى الَّتِي قَطَعْتَها لِعَبدِكَ داوُدَ، أبِي. فَقَدْ قُلْتَ لَهُ: ‹يَنْبَغِي أنْ يَحرِصَ أبناؤُكَ دائِماً عَلَى طاعَتِي، كَما فَعَلْتَ أنْتَ. فَإنْ فَعَلُوا، سَأضمَنُ أنْ يَكُونَ واحِدٌ مِنْ نَسلِكَ مَلِكاً عَلَى إسْرائِيلَ دائِماً.›
26 H ỡi Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! xin hãy làm cho ứng nghiệm lời Chúa đã hứa cùng kẻ tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi.
وَها أنا أطلُبُ إلَيكَ مَرَّةً أُخْرَى، يا إلَهَ إسْرائِيلَ، أنْ تَحْفَظَ وَعدِكَ هَذا دائِماً لِأبِي، خادِمِكَ.
27 N hưng quả thật rằng Đức Chúa Trời ngự trên đất này chăng? Kìa, trời, dầu đến đỗi trời của các từng trời chẳng có thể chứa Ngài được thay, phương chi cái đền này tôi đã cất!
«لَكِنْ، أحَقّاً سَتَسْكُنُ مَعَنا عَلَى الأرْضِ، بَينَما الكَوْنُ كُلُّهُ وَالسَّماواتُ لا تَتَّسِعُ لَكَ؟ فَكَيفَ يَتَّسِعُ لَكَ هَذا البَيتُ الَّذِي بَنَيتُهُ؟
28 D ầu vậy, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi! xin hãy đoái đến lời cầu nguyện và sự nài xin của kẻ tôi tớ Chúa. đặng nghe tiếng kêu cầu và khẩn nguyện mà kẻ tôi tớ Chúa cầu trước mặt Chúa ngày nay.
فَاسْتَمِعْ إلَى صَلاتِي، أنا عَبْدَكَ، يا إلَهِي ، وَاسْتَمِعْ إلَى طِلْبَتِي الَّتِي أرفَعُها اليَوْمَ إلَيكَ.
29 N guyện mắt của Chúa ngày và đêm đoái xem nhà nầy, là chỗ mà Chúa đã phán rằng: Danh ta sẽ ngự tại đó, đặng nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Chúa hướng nơi này mà cầu.
أُصَلِّي أنْ تَبقَى عَيناكَ عَلَى هَذا الهَيكَلِ نَهاراً وَلَيلاً. فَأنتَ قُلْتَ إنَّكَ سَتَضَعُ اسْمَكَ فِيهِ. لَيتَكَ تَسمَعُ صَلَواتِيَ الآنَ بَينَما أنظُرُ إلَى هَيكَلِكَ.
30 P hàm điều gì tôi tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Chúa sẽ hướng về nơi này mà khẩn cầu, xin Chúa hãy dủ nghe; phải, ở nơi ngự của Chúa, tại trên các từng trời, xin Chúa dủ nghe, nhậm lời, và tha thứ cho.
سَنَأْتِي أنا وَشَعبُكَ إسْرائِيلَ إلَى هَذا المَكانِ لِكَي نُصَلِّي لَكَ. فَاسْتَمِعْ إلَى صَلَواتِنا مِنْ مَكانِ سُكْناكَ فِي السَّماءِ. وَحِينَ تَسْمَعُ صَلَواتِنا، فَإنَّنا نَسألُكَ أنْ تَغفِرَ لَنا.
31 K hi ai phạm tội cùng kẻ lân cận mình, và người ta bắt đi đó phải thề, nếu người đến thề trước bàn thờ của Chúa, tại trong đền này,
«إذا اتُّهِمَ شَخصٌ بِالإساءَةِ إلَى آخَرَ، سَيُؤْتَى بِالطَّرَفَينِ هُنا إلَى المَذبَحِ. فَإذا أنكَرَ المُتَّهَمُ أنَّهُ أساءَ، سَيُحَلَّفُ أنَّهُ بَرِيءٌ،
32 t hì xin Chúa ở trên trời hãy nghe, đối đãi và xét đoán tôi tớ Chúa, mà lên án cho kẻ dữ, khiến đường lối nó đổ lại trên đầu nó, và xưng công bình cho người công bình, và thưởng ngươi tùy theo sự công bình của người.
فَاسْمَعْ مِنَ السَّماءِ وَاستَجِبْ، وَاقضِ بَينَ خَادِمَيكَ. احكُمْ عَلَى المُذنِبِ وَعاقِبْهُ عَلَى عَمَلِهِ، وَأنصِفِ البَرِيءَ وَكافِئْهُ بِحَسَبِ صَلاحِهِ.
33 K hi dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, vì cớ phạm tội với Chúa, bị kẻ tù nghịch đánh được; nếu chúng nó trở lại với Chúa, nhận biết danh Ngài và cầu nguyện nài xin với Chúa trong đền này,
«رُبَّما يُخطِئُ شَعبُكَ إسْرائِيلُ أحياناً، فَتَسمَحُ لِأعدائِهِمْ بِأنْ يَنتَصِرُوا عَلَيهِمْ. حِينَئِذٍ، سَيَرجِعُونَ إلَيكَ وَيَعتَرِفُونَ بِخَطِيَّتِهِمْ، وَيَعُودُونَ إلَيكَ، وَيَتَضَرَّعُونَ وَيُصَلُّونَ إلَيكَ فِي هَذا الهَيكَلِ.
34 t hì xin Chúa ở trên trời hãy dủ nghe, tha tội cho dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, và khiến họ trở về đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ.
فاسْمَعْهُمْ مِنْ سَمائِكَ. وَاغفِرْ لِشَعبِكَ إسْرائِيلَ، وَأعِدْ لَهُمْ أرْضَهُمُ الَّتِي أعْطَيتَها لآبائِهِمْ.
35 N ếu các từng trời bị đóng chặt, không có mưa, bởi vì chúng nó đã phạm tội với Chúa, nếu chúng nó hướng về nơi này mà cầu nguyện, nhận biết danh Chúa, xây bỏ tội lỗi mình, sau khi Chúa đã đoán phạt họ,
«رُبَّما يُخطِئُونَ إلَيكَ، فَتُعاقِبُهُمْ بِحَبْسِ المَطَرِ عَنْ أرْضِهِمْ، فَيُصَلُّونَ مُوَجِّهِينَ أنظارَهُمْ إلَى هَذا المَكانِ، وَيَعتَرِفُونَ بِخَطِيَّتِهِمْ. وَيَعُودُونَ إلَيكَ أنْتَ إلَهَهُمْ مِنْ جَدِيدٍ بَعْدَ أنْ ضايَقْتَهُمْ.
36 t hì xin Chúa ở trên trời hãy dủ nghe, tha tội cho các tôi tớ Chúa, và cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Xin hãy chỉ cho họ con đường thiện mà họ phải đi, và giáng mưa trên đất của Chúa đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.
فاسمَعْهُمْ مِنْ سَمائِكَ، وَاغفِرْ لَهُمْ خَطاياهُمْ، وَعَلِّمْ شَعبَكَ أنْ يَسِيرُوا فِي مَرْضاتِكَ، وَأرسِلْ مَطَراً لِلأرْضِ الَّتِي أعطَيتَها لَهُمْ.
37 K hi trong xứ xảy có đói kém, ôn dịch, hạn hán, ten sét, cào cào, châu chấu, hoặc có quân thù nghịch vây các thành của địa phận họ, hay là có tai vạ chi, tật bịnh gì;
«رُبَّما تَحدُثُ مَجاعَةٌ، أوْ رُبَّما يَنتَشِرُ وَباءٌ، أوْ رُبَّما تَقْضِي حَشَراتٌ عَلَى المَحاصِيلِ، وَرُبَّما يُحاصَرُ شَعبُكَ مِنْ أعدائِهِمْ فِي بَعضِ مُدُنِهِمْ، فَتَتَفَشَّى الأمراضُ بَينَهُمْ.
38 n ếu có một người hoặc cả dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, ai nấy đã nhận biết tai họa của lòng mình, mà giơ tay ra hướng về đền này, và cầu nguyện, khẩn xin vô luận điều gì,
فِإنْ لَجَأَ إلَيكَ شَعبُكَ إسرائِيلُ أوْ أحَدُ أفرادِهِ بِالصَّلاةِ وَالتَّضّرُّعِ، مُعتَرِفِينَ بِمَعاصِيَ قُلُوبِهِمْ، باسِطِينَ أيدِيَهُمْ نَحوَ هَذا البَيتِ،
39 t hì xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, dủ nghe, và tha thứ cho, đối đãi, báo ứng mỗi người tùy theo công việc họ, vì Chúa thông biết lòng của họ (thật chỉ một mình Chúa biết lòng của con cái loài người),
فاسْمَعْ صَلاتَهُمْ مِنْ مَسْكِنِكَ فِي سَمائِكَ، وَاغفِرْ لَهُمْ وَأعِنْهُمْ. وَاحكُمْ عَلَى كُلِّ شَخصٍ حَسَبَ أعمالِهِ وَنَواياهُ، فَأنتَ وَحدَكَ تَعرِفُ خَفايا قُلُوبِ البَشَرِ.
40 đ ể khiến họ kính sợ Chúa trọn đời họ sống ở trên đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ chúng tôi.
حِينَئِذٍ، سَيَهابُونَكَ طَوالَ فَتْرَةِ بَقائِهِمْ فِي الأرْضِ الَّتِي أعطَيتَها لآبائِنا.
41 V ả lại, về khách lạ, là người chẳng thuộc về dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, nhưng vì danh Ngài từ xứ xa đến
«قَدْ يَأْتِي أجنَبِيٌّ لَيسَ مِنْ شَعبِكَ إسْرائِيلَ، بَلْ بَلَدٍ بَعِيدٍ مِنْ أجلِ اسْمِكَ.
42 ( vì người ngoại bang sẽ nghe nói về danh lớn của Chúa, về cánh tay quyền năng giơ thẳng ra của Chúa), khi người đến cầu nguyện trong nhà này,
فَالنَّاسُ يَسْمَعُونَ بِاسْمِكَ العَظيمِ وَقُوَّتِكَ الجَبّارَةِ وَمَقدِرَتِكَ عَلَى عَمَلِ أُمُورٍ عَظِيمَةٍ. عِندَما يَأْتِي مِثلُ هَذا الشَّخصِ وَيُصَلِّي ناظِراً إلَى هَذا الهَيكَلِ،
43 x in Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, dủ nghe và làm theo mọi điều người khách lạ sẽ cầu xin Chúa để cho muôn dân của thế gian nhận biết danh Chúa, kính sợ Chúa, y như dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, và cho biết rằng danh Chúa xưng ra trên đền này mà tôi đã xây cất.
فاسمَعْ صَلَواتِهِمْ مِنْ مَسكِنِكَ فِي سَمائِكَ. وَاستَجِبْ لِكُلَّ ما يَطلُبُهُ مِنْكَ هَؤُلاءِ. حِينَئِذٍ، سَيَهابُونَكَ مَهابَةَ شَعبِكَ إسْرائِيلَ لَكَ، وَثُمَّ سَيَعرِفُ كُلُّ البَشَرِ أنِّي بَنَيتُ هَذا الهَيكَلَ لاسْمِكَ وَإكْراماً لَكَ.
44 K hi dân của Chúa đi chiến trận cùng quân thù nghịch mình, theo con đường Chúa đã sai đi, nếu họ cầu khẩn Đức Giê-hô-va xây mặt hướng về thành Chúa đã chọn, và về đền tôi đã cất cho danh Ngài,
«وَإذا أمرْتَ شَعبَكَ بِالخُرُوجِ لِمُحارَبَةِ أعدائِهِمْ فِي مَكانٍ ما، وَصَلُّوا إلَى اللهِ ناظِرِينَ نَحوَ المَدِينَةِ الَّتِي اختَرْتَها، وَالهَيكَلِ الَّذِي بَنَيتُهُ إكراماً لاسْمِكَ،
45 t hì xin Chúa ở trên trời, hãy dủ nghe các lời cầu nguyện nài xin của chúng, và binh vực quyền lợi cho họ.
فاسْمَعْ صَلَواتِهِمْ وَتَضَرُّعاتِهِمْ مِنْ مَسْكَنِكَ فِي السَّماءِ وَأعِنْهُمْ.
46 K hi chúng nó phạm tội cùng Chúa (vì không có người nào chẳng phạm tội) và Chúa nổi giận, phó chúng nó cho kẻ thù nghịch; khi họ bị bắt làm phu tù đến xứ của kẻ thù nghịch, hoặc xa hoặc gần,
«سَيُخطِئُ شَعبُكَ إلَيكَ أحياناً، لِأنَّهُ ما مِنْ إنسانٍ مَعصُومٍ عَنْ ذَلِكَ، فَتَغْضَبُ عَلَيهِمْ وَتَسْمَحُ لِأعدائِهِمْ بِأنْ يَهزِمُوهُمْ وَيَأْخُذُوهُمْ أسْرَى إلَى أرْضٍ بَعِيدَةٍ،
47 v í bằng trong xứ mà họ bị tù, họ nghĩ lại, ăn năn, và nài xin Chúa mà rằng: "Chúng tôi có phạm tội, làm điều gian ác, và cư xử cách dữ tợn;"
فَيَعُودُونَ إلَى رُشْدِهِمْ فِي تِلْكَ الأرْضِ البَعِيدَةِ، وَيُصَلُّونَ إلَيكَ نادِمِينَ عَلَى خَطاياهُمْ فَيَقُولُونَ: ‹قَدْ أخطَأْنا وَأسَأْنا،›
48 n hược bằng tại trong xứ mà thù nghịch đã dẫn họ đến làm phu tù, họ hết lòng hết ý trở lại cùng Chúa, cầu nguyện cùng Ngài, mặt hướng về xứ mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ, về thành mà Chúa đã chọn, và về đền mà tôi đã xây cất cho danh Chúa,
فَيَرجِعُونَ إلَيكَ فِي أرْضِ أعدائِهِمْ بِكُلِّ قُلُوبِهِمْ وَأنفُسِهِمْ، نادِمِينَ عَلَى خَطاياهُمْ. وَيُصَلُّونَ ناظِرِينَ إلَى المَدِينَةِ الَّتِي اختَرْتَها أنتَ وَالهَيْكَلِ الَّذِي بَنَيتُهُ أنا لاسمِكَ،
49 t hì xin Chúa ở trên trời, tức nơi Chúa ngự, hãy dủ nghe lời cầu nguyện nài xin của họ, và binh vực quyền nài xin của họ, và binh vực quyền lợi cho họ;
فاسْمَعْ صَلاتَهُمْ وَتَضَرُّعاتِهِمْ مِنْ مَسْكَنِكَ فِي سَمائِكَ، وَأنصفِهِم.
50 t ha cho dân Chúa tội lỗi và các sự trái mạng mà họ đã phạm cùng Ngài; xin Chúa khiến những kẻ bắt họ làm phu tù có lòng thương xót họ,
وَاغْفِرْ لِشَعبِكَ خَطاياهُمْ ضِدَّكَ وَتَمَرُّدَهُمْ عَلَيكَ، وَارأفْ بِهِمْ أمامَ أعدائِهِمُ الَّذِينَ أسَرُوهُمْ، لَعَلَّهُمْ هُمْ أيضاً يَرْأفُونَ بِهِمْ.
51 v ì dân Y-sơ-ra-ên vốn là dân sự Chúa, cơ nghiệp của Chúa, mà Chúa đã đem ra khỏi Ê-díp-tô, tức khỏi giữa lò sắt.
اذكُرْ أنَّهُمْ شَعبُكَ الَّذِينَ أخرَجْتَهُمْ مِنْ مِصْرَ كَما مِنْ فُرْنٍ مُشتَعِلٍ!
52 N guyện Chúa đoái xem kẻ tôi tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, dủ nghe lời cầu nguyện nài xin của họ, mỗi lần họ kêu cầu cùng Chúa.
«انْظُرْ إلَى صَلاتِي وَإلَى صَلَواتِ شَعبِكَ إسْرائِيلَ، وَأصغِ إلَيهِمْ كُلَّما اسْتَنجَدُوا بِكَ.
53 H ỡi Chúa Giê-hô-va ôi! Chúa đã phân cách họ khỏi các dân tộc trên đất, để họ làm cơ nghiệp Chúa, y như Chúa đã phán bởi miệng Môi-se, là tôi tớ Chúa, khi Chúa đem tổ phụ chúng tôi ra khỏi Ê-díp-tô.
فَأنْتَ اختَرْتَهُمْ مِنْ بَيْنِ جَمِيعِ شُعُوبِ الأرْضِ لِيَكُونُوا مُلْكاً لَكَ. فَهَذا هُوَ ما وَعَدْتَهُمْ بِهِ يا اللهُ عَلَى لِسانِ عَبْدِكَ مُوسَى عِنْدَما أخرَجْتَهُمْ مِنْ مِصْرَ.»
54 K hi Sa-lô-môn đã cầu với Đức Giê-hô-va những lời khẩn nguyện nài xin này xong, bèn đứng dậy trước bàn thờ Đức Giê-hô-va, khỏi nơi người đã quì, tay giơ lên trời.
رَفَعَ سُلَيْمانُ هَذِهِ الصَّلاةَ إلَى اللهِ راكِعاً أمامَ مَذبَحِ اللهِ ، باسِطاً ذِراعَيهِ نَحوَ السَّماءِ. وَلَمّا أنهَى صَلاتَهُ وَقَفَ.
55 N gười đứng chúc phước lớn tiếng cho cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, mà rằng:
وَقَفَ وَطَلَبَ البَرَكَةَ عَلَى بَنِي إسْرائِيلَ فَقالَ:
56 Đ áng khen ngợi Đức Giê-hô-va, là Đấng đã ban sự bình yên cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, tùy theo các lời Ngài đã hứa! Về các lời tốt lành mà Ngài đã cậy miệng Môi-se, kẻ tôi tớ Ngài, phán ra, chẳng có một lời nào không ứng nghiệm.
«تَبارَكَ اللهُ الَّذِي وَعَدَ شَعبَهُ إسْرائِيلَ بِراحَةٍ فَأعطاها! قَطَعَ لَهُمْ وُعُوداً كَثِيرَةً عَلَى فَمِ عَبْدِهِ مُوسَى. فَتَحَقَّقَتْ كُلُّها!
57 N guyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi ở với chúng tôi, như Ngài đã ở cùng tổ phụ chúng tôi, chớ lìa, chớ bỏ chúng tôi;
فَلَيتَ إلَهَنا يَكُونُ مَعَنا كَما كانَ مَعَ آبائِنا، فَلا يَترُكَنا أبَداً.
58 n guyện Ngài giục lòng chúng tôi hướng về Ngài, hầu chúng tôi đi trong mọi đường lối Ngài, giữ những điều răn, luật pháp, và mạng lịnh của Ngài đã truyền cho tổ phụ chúng tôi.
لَيتَهُ يَجذِبُ قُلُوبَنا إلَيهِ. فَحِينَئِذٍ، سَنُطِيعُ شَرائِعَهُ وَأحكامَهُ وَوَصاياهُ الَّتِي أعطاها لِآبائِنا.
59 Ư ớc gì Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta ngày đêm dủ lòng nhớ đến các lời ta đã nài xin trước mặt Ngài, hầu cho tùy việc cần ngày nào theo ngày nấy, Đức Giê-hô-va binh vực quyền lợi của tôi tớ Ngài và của dân Y-sơ-ra-ên;
لَيتَ كَلِماتِ صَلاتِي هَذِهِ إلَى اللهِ ، تَكُونُ أمامَ إلَهَنا لَيلَ نَهارٍ. لَيتَهُ يَسُدُّ حاجَةَ عَبْدِهِ المَلِكِ، وَشَعبِهِ إسْرائِيلَ يَوماً بِيَومٍ.
60 h ầu cho muôn dân của thế gian biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, chớ chẳng có ai khác.
إذْ حِينَئِذٍ، سَتَعرِفُ الشُّعُوبُ أنَّ يهوه هُوَ اللهُ الحَقِيقِيُّ.
61 V ậy, các ngươi khá lấy lòng trọn lành đối với Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, để đi theo luật lệ Ngài và giữ gìn điều răn của Ngài, y như các ngươi đã làm ngày nay.
فَكَرِّسُوا أنْفُسَكُمْ تَماماً لإلَهِنا ، وَاتبَعُوا كُلَّ شَرائِعِهِ وَوَصاياهُ دائِماً، كَما تَفعَلُونَ حَتَّى هَذا اليَومِ.»
62 V ua và cả Y-sơ-ra-ên đều dâng các của lễ tại trước mặt Đức Giê-hô-va.
بَعدَ ذَلِكَ، قَدَّمَ المَلِكُ سُلَيْمانُ وَكُلُّ بَنِي إسْرائِيلَ مَعَهُ ذَبائِحَ للهِ.
63 S a-lô-môn dâng của lễ thù ân cho Đức Giê-hô-va, hai muôn hai ngàn con bò đực và mười hai muôn con chiên. Vua và cả dân Y-sơ-ra-ên đều dự lễ khánh thành đền của Đức Giê-hô-va là như vậy.
فَقَدَّمَ سُلَيْمانُ اثْنَينِ وَعِشْرِينَ ألفاً مِنَ البَقَرِ وَمِئَةً وَعِشْرِينَ ألفاً مِنَ الغَنَمِ كَذَبائِحِ شَرِكَةٍ. وَهَكَذا كَرَّسَ المَلِكُ وَكُلُّ الشَّعبِ بَيتَ اللهِ.
64 T rong ngày đó, vua biệt riêng ra nơi chính giữa của hành lang ở trước đền thờ của Đức Giê-hô-va, vì tại đó người dâng các của lễ thiêu, của lễ chay, và mỡ về của lễ thù ân; bởi vì bàn thờ bằng đồng để trước đền của Đức Giê-hô-va là nhỏ quá, đựng các của lễ thù ân không đặng.
وَكَرَّسَ سُلَيْمانُ أيضاً السّاحَةَ الَّتِي أمامَ بَيتَ اللهِ. وَقَدَّمَ ذَبائِحَ صاعِدَةً، وَتَقدِماتِ دَقِيقٍ، وَشُحُوماً مِنْ ذَبائِحِ الشَّرِكَةِ. قَدَّمَ سُلَيْمانُ هَذِهِ الذَّبائِحَ هُناكَ فِي السّاحَةِ لِأنَّ مَذبَحَ البُرونْزِ القائِمَ فِي حَضرَةِ اللهِ كانَ صَغيراً لا يَتَّسِعُ لِهَذِهِ التَّقدِماتِ جَميعِها.
65 T rong lúc đó, Sa-lô-môn và cả dân Y-sơ-ra-ên, một hội chúng rất lớn, ở từ miền Ha-mát cho đến khe Ê-díp-tô, hiệp tại trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, mà giữ lễ trong bảy ngày, lại bảy ngày khác nữa, cộng mười bốn ngày.
وَاحتَفَلَ سُلَيْمانُ وَكُلُّ بَنِي إسْرائِيلَ فِي ذَلِكَ الهَيْكَلِ بِالعِيدِ. كانَ كُلُّ بَنِي إسْرائِيلَ هُناكَ، مِنْ مَعْبَرِ حَماةَ شِمالاً إلَى حُدُودِ مِصْرَ جَنُوباً. فَكانُوا جُمْهُوراً كَبِيراً، عَيَّدُوا فِي حَضْرَةِ اللهِ سَبْعَةَ أيّامٍ.
66 N gày thứ tám, vua cho dân sự về; dân chúc phước cho vua, đi trở về trại mình, lấy làm mừng rỡ vui lòng về mọi sự tốt lành mà Đức Giê-hô-va đã làm cho Đa-vít, kẻ tôi tớ Ngài, và cho Y-sơ-ra-ên, dân sự của Ngài.
وَفِي اليَوْمِ التّالِي صَرَفَ المَلِكُ النّاسَ إلَى بُيُوتِهِمْ. فَبارَكُوا المَلِكَ وَعادُوا إلَى بُيُوتِهِمْ فَرِحِينَ جِدّاً، بِسَبَبِ كُلِّ إحساناتِ اللهِ لِداوُدَ عَبْدِهِ وَلِبَنِي إسْرائِيلَ.