1 „ M-am făcut cunoscut celor ce nu întrebau de Mine; am fost găsit de cei ce nu Mă căutau. Am zis: «Iată-Mă, iată-Mă!» unui neam care nu chema Numele Meu.
Những kẻ vốn chẳng cầu hỏi ta thì đã hỏi thăm ta; những kẻ vốn chẳng tìm ta thì đã gặp được ta. Ta đã phán cùng một dân chưa kêu cầu danh ta, mà rằng: Ta đây, ta đây!
2 T oată ziua Mi-am întins mâinile către un popor neascultător, care umblă pe o cale care nu este bună, în voia gândurilor lui;
Ta đã giang tay ra trọn ngày hướng về một dân bội nghịch, là những kẻ đi trong đường không tốt, theo ý riêng mình,
3 c ătre un popor care nu conteneşte să Mă provoace pe faţă, aducând jertfe în grădini şi arzând tămâie pe altare din cărămidă;
là một dân kia hằng chọc giận ta trước mặt ta, tế trong vườn, đốt hương trên đống gạch,
4 c are stă în morminte şi-şi petrece noaptea în locuri tainice; care mănâncă carne de porc şi are bucate necurate în vasele lui;
ngồi trong mồ mả, trọ trong nơi kín, ăn thịt heo, đựng nước của vật gớm ghiếc trong khí mạnh nó,
5 c are zice: «Stai deoparte! Nu te apropia de mine, căci sunt prea sfânt pentru tine!» Aceste lucruri sunt un fum în nările Mele, un foc care arde toată ziua.
và dám nói rằng: Hãy đứng riêng ra, đừng lại gần ta, vì ta thánh sạch hơn ngươi! Bọn đó là khói nơi lỗ mũi ta, như lửa cháy cả ngày.
6 I ată, stă scris înaintea Mea: «Nu voi tăcea, ci voi răsplăti pe deplin; voi pune o răsplată deplină în poala lor,
Nầy, đã ghi chép trước mặt ta rằng ta sẽ không làm thinh đâu, song ta sẽ báo trả, thật ta sẽ báo trả vào ngực nó,
7 a tât pentru nedreptăţile lor, cât şi pentru ale părinţilor lor»“, zice Domnul. Pentru că au ars tămâie pe munţi, şi M-au sfidat pe dealuri, voi măsura în poala lor o răsplată deplină pentru faptele lor din trecut.“
tức là tội ác các ngươi, luôn với tội ác tổ phụ các ngươi, là những kẻ đã đốt hương trên các núi, và nói phạm đến ta trên các gò: nên ta sẽ đo lường việc trước chúng nó vào ngực chúng nó. Đức Giê-hô-va phán vậy.
8 „ Aşa vorbeşte Domnul: «După cum se mai găseşte suc într-un ciorchine, iar cineva spune: ‘Nu-l distruge, căci încă se mai află ceva bun în el!’, tot aşa voi face şi Eu de dragul robilor Mei: nu-i voi nimici pe toţi.
Đức Giê-hô-va phán như vầy: Khi người ta thấy rượu mới trong chùm nho, thì rằng: Đừng làm hư đi, vì trong trái đó có phước lành; ta cũng sẽ làm như vậy vì cớ các tôi tớ ta, hầu cho ta không hủy diệt cả.
9 V oi face să iasă o sămânţă din Iacov şi din Iuda un moştenitor al munţilor Mei! Aleşii Mei îi vor moşteni şi robii Mei vor locui acolo.
Ta sẽ khiến một dòng dõi ra từ Gia-cốp, và một kẻ kế tự các núi ta ra từ Giu-đa; những kẻ lựa chọn của ta sẽ được xứ nầy làm kỷ vật, tôi tớ ta sẽ ở đó.
10 Ş aronul va fi păşune pentru turme, iar valea Acor – un loc de odihnă pentru cirezi, pentru poporul care Mă caută.
Trong dân ta, những kẻ nào đã tìm kiếm ta, sẽ được đồng Sa-rôn dùng làm chỗ chăn chiên, nơi trũng A-cô dùng làm đồng cỏ thả bò.
11 C ât despre voi, care-L părăsiţi pe Domnul, care uitaţi de muntele Meu cel sfânt, care întindeţi o masă ‘Norocului’ şi umpleţi o cupă de vin amestecat în cinstea ‘Destinului’,
Còn như các ngươi, là kẻ đã bỏ Đức Giê-hô-va, đã quên núi thánh ta, đã đặt một bàn cho Gát, và rót chén đầy kính Mê-ni,
12 v ă voi destina sabiei. Toţi vă veţi pleca pentru înjunghiere, pentru că, atunci când am chemat, nu aţi răspuns, când am vorbit, nu aţi ascultat, ci aţi făcut ce era rău înaintea Mea şi aţi ales ceea ce nu-Mi era plăcut.»“
nên ta định cho các ngươi phải gươm dao, các ngươi thảy đều cúi xuống và bị giết; vì ta đã kêu, các ngươi không đáp lại; ta đã nói, các ngươi không lắng nghe, nhưng các ngươi đã làm điều ta ghét, và đã chọn điều ta chẳng đẹp lòng.
13 „ De aceea aşa vorbeşte Stăpânul Domn: «Iată! Robii Mei vor mânca, însă voi veţi flămânzi. Iată! Robii Mei vor bea, însă voi veţi înseta. Iată! Robii Mei se vor bucura, însă voi veţi fi făcuţi de ruşine.
Vậy nên Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, các tôi tớ ta sẽ ăn, còn các ngươi thì đói; nầy, tôi tớ ta sẽ uống, còn các ngươi thì khát; nầy, tôi tớ ta sẽ được vui vẻ, còn các ngươi thì bị nhuốc nha;
14 I ată! Robii Mei vor chiui dintr-o inimă veselă, însă voi veţi ţipa dintr-o inimă îndurerată şi vă veţi văita dintr-un duh zdrobit.
nầy, tôi tớ ta sẽ hát mừng vì lòng đầy vui vẻ, còn các ngươi thì khóc lóc vì lòng buồn bực, kêu than vì tâm thần phiền não.
15 V ă veţi lăsa numele ca un blestem aleşilor Mei şi Stăpânul Domn vă va omorî, iar robilor Săi le va da un alt nume.
Danh các ngươi sẽ còn lại làm tiếng rủa sả cho những kẻ lựa chọn của ta; Chúa Giê-hô-va sẽ giết ngươi; những Ngài sẽ lấy danh khác đặt cho các tôi tớ mình.
16 O ricine va rosti o binecuvântare în ţară, va rosti o binecuvântare prin Dumnezeul adevărului şi oricine va jura în ţară, va jura pe Dumnezeul adevărului, pentru că necazurile de dinainte sunt uitate şi ascunse de ochii Mei. Ceruri noi şi un pământ nou
Vì vậy, phàm ai ở trên đất chúc phước cho mình thì sẽ cầu phước lành nơi danh Đức Chúa Trời chơn thật; còn ai ở trên đất mà thề nguyền, thì sẽ chỉ Đức Chúa Trời chơn thật mà thề nguyền; vì những sự khốn nạn trước đã quên hết, và đã khuất khỏi mặt ta.
17 C ăci iată, creez ceruri noi şi un pământ nou! Lucrurile de dinainte nu vor mai fi amintite şi nu vor mai reveni în mintea nimănui.
Ta sẽ dựng trời mới đất mới; những việc trước sẽ chẳng nhớ nữa, chẳng còn nhắc đến nữa.
18 P rin urmare, bucuraţi-vă şi veseliţi-vă pentru totdeauna de ceea ce creez, căci iată, creez Ierusalimul pentru a fi o veselie şi poporul lui, o bucurie.
Thà các ngươi hãy mừng rỡ và vui vẻ đời đời trong sự ta dựng nên. Thật, ta dựng nên Giê-ru-sa-lem cho sự vui, và dân nó cho sự mừng rỡ.
19 M ă voi bucura de Ierusalim şi mă voi veseli de poporul Meu. Nu se va mai auzi în el nici plâns şi nici ţipăt,
Ta sẽ vui vì Giê-ru-sa-lem, ta sẽ mừng vì dân ta; tại đó sẽ chẳng còn nghe tiếng khóc lóc kêu la nữa.
20 n u va mai fi acolo nici un sugar care să trăiască doar câteva zile şi nici un bătrân care să nu-şi împlinească zilele. Cel care va muri la o sută de ani va fi considerat tânăr şi cel care nu va ajunge suta de ani va fi considerat blestemat.
Tại đó sẽ không có trẻ con chết non, cũng chẳng có ông già nào chẳng trọn đời mình; vì chết lúc trăm tuổi, còn là chết trẻ, và kẻ có tội lúc trăm tuổi, ấy là bị rủa sả.
21 Î şi vor construi case şi vor locui în ele; vor planta vii şi vor mânca rodul lor.
Dân ta sẽ xây nhà và ở, trồng vườn nho và ăn trái.
22 E i nu vor mai zidi case ca alţii să locuiască în ele, nu vor mai planta ca alţii să mănânce, căci, precum zilele unui copac, aşa vor fi şi zilele poporului Meu, iar aleşii Mei se vor bucura pe deplin de lucrul mâinilor lor.
Họ chẳng xây nhà cho người khác ở, chẳng trồng vườn nho cho người khác ăn; vì tuổi dân ta sẽ như tuổi cây, những kẻ lựa chọn của ta sẽ hằng hưởng công việc tay mình làm.
23 E i nu vor trudi în van, nici nu vor naşte copii sortiţi pieirii, căci vor fi o sămânţă binecuvântată de Domnul, ei şi urmaşii lor.
Họ sẽ không nhọc mình vô ích nữa, không kẻ con ra để gặp sự họa, vì họ là dòng dõi của kẻ được ban phước bởi Đức Giê-hô-va, con cháu họ cùng với họ nữa.
24 Î nainte ca ei să Mă cheme, Eu le voi răspunde, înainte să termine de vorbit, Eu îi voi auzi!
Ta sẽ nhậm lời họ trước khi kêu cầu ta; họ còn nói, ta đã nghe rồi.
25 L upul şi mielul vor paşte împreună, leul va mânca paie ca boul, iar hrana şarpelui va fi ţărâna! Ei nu vor face rău, nici nu vor distruge ceva pe întregul Meu munte sfânt, zice Domnul.»“
Muông sói với chiên con sẽ ăn chung, sư tử ăn rơm như bò, rắn ăn bụi đất. Sẽ chẳng có ai làm tổn hại hay là hủy phá trong khắp núi thánh ta, Đức Giê-hô-va đã phán vậy.