1 N a i nga ra i whakarite ai nga kaiwhakarite, kua pa te matekai ki te whenua. A ka haere tetahi tangata o Peterehema Hura ki te whenua o Moapa noho ai; a ia, tana wahine, me ana tama tokorua.
Trong đời các quan xét, một cơn đói kém xảy đến trong xứ, có một người từ Bết-lê-hem xứ Giu-đa, đi với vợ và hai con trai mình đến kiều ngụ trong xứ Mô-áp.
2 N a, ko te ingoa o taua tangata, ko Erimereke, ko Naomi hoki te ingoa o tana wahine; ko nga ingoa hoki o ana tama tokorua, ko Maharono, ko Kiriono, he Eparati ratou, no Peterehema Hura. Na haere ana ki te whenua o Moapa, a noho ana i reira.
Người tên là Ê-li-mê-léc, vợ tên là Na-ô-mi, hai con trai tên là Mạc-lôn và Ki-li-ôn, đều là dân Ê-phơ-rát về Bết-lê-hem trong xứ Giu-đa. Đến xứ Mô-áp, chúng bèn ở tại đó.
3 N a ka mate a Erimereke, te tahu a Naomi, a mahue iho ko ia, ratou ko ana tama tokorua.
Ê-li-mê-léc, chồng của Na-ô-mi, qua đời, để nàng lại với hai con trai mình.
4 N a ka tango wahine raua ma raua i roto i nga wahine o Moapa; ko Oropa te ingoa o tetahi, ko Rutu te ingoa o tetahi, a noho ana i reira, kotahi tekau nga tau.
Chúng nó cưới vợ trong người nữ Mô-áp, người nầy tên là O
5 N a ka mate raua tokorua, a Maharono raua ko Kiriono, a ko te wahine anake te putanga o ana tama tokorua, o tana tahu.
Kế sau, Mạc-lôn và Ki-li-ôn cũng thác, để Na-ô-mi ở lại, không chồng không con.
6 K atahi ia ka whakatika, ratou ko ana hunaonga, a hoki ana i te whenua o Moapa; i rongo hoki i te whenua o Moapa kua titiro mai a Ihowa ki tana iwi, kua hoatu e ia he taro ma ratou.
Bấy giờ, Na-ô-mi có nghe nói rằng Đức Giê-hô-va đã đoái xem dân sự Ngài, và ban lương thực cho, bèn đứng dậy cùng hai dâu mình, đặng từ xứ Mô-áp trở về.
7 H eoi haere atu ana ia i te wahi i noho ai, ratou tahi ko ana hunaonga tokorua, a haere ana i te ara, hoki ana ki te whenua o Hura.
Vậy, người lìa bỏ chỗ mình đã ở, cùng hai dâu mình lên đường đặng trở về xứ Giu-đa.
8 N a ka mea a Naomi ki ana hunaonga tokorua, Haere korua, e hoki ki nga whare o o korua whaea: ma Ihowa korua e atawhai; kia rite tana ki ta korua mahi ki nga tupapaku, ki ahau hoki.
Nhưng Na-ô-mi nói cùng hai dâu mình rằng: Mỗi con hãy trở về nhà mẹ mình đi. Cầu Đức Giê-hô-va lấy ơn đãi hai con như hai con đã đãi các người thác của chúng ta, và đã đãi chính mình ta!
9 M a Ihowa e hoami ki a korua kia kite korua i te okiokinga i roto i te whare o tana tahu, o tana tahu. Na ka kihi ia i a raua, a rahi noa atu o ratou reo ki te tangi.
Nguyện Đức Giê-hô-va ban cho hai con được bình yên ở nơi nhà chồng mới! Rồi người ôm hôn hai nàng, còn hai nàng cất tiếng lên khóc,
10 N a ka mea raua ki a ia, Engari me hoki tahi tatou ki tou iwi.
và nói rằng: Chúng tôi sẽ đi với mẹ đến quê hương của mẹ.
11 A no ra ko Naomi, Hoki atu, e aku tamahine: kia haere tahi korua i ahau hei aha? he tama ano ianei enei kei roto i toku kopu hei tane ma korua?
Ma-ô-mi đáp: Hỡi con gái ta, hãy trở về, đi với mẹ làm chi? Mẹ há còn những con trai trong lòng có thế làm chồng chúng con sao?
12 H oki atu, e aku tamahine, haere, kua ruruhitia nei hoki ahau, a e kore e whai tahu. Me i ki ahau, Kei te tumanako ahau, tera ano ahau e whai tane i tenei po, a ka whanau ano he tama maku;
Hỡi hai con gái ta, hãy trở về đi đi; mẹ già quá mà lấy chồng nữa. Lại dầu bây giờ mẹ nói chiều nay ta sẽ có chồng, dẫu ta sanh đẻ con trai đi nữa,
13 T era ranei korua e tatari ki a raua kia kaumatua ra ano? tera ranei e mau tonu korua ki a raua, a e whakakahore ki te tane? Kahore, e aku tamahine, nui noa atu hoki toku pouri ina whakaaro ki a korua; na te ringa hoki o Ihowa kua puta mai nei ki ahau.
chúng con há lại muốn đợi cho đến chúng nó khôn lớn, và không lấy chồng khác hay sao? Không, hỡi chúng con, nỗi sầu thảm của mẹ cay đắng muôn phần hơn của chúng con, vì tay của Đức Giê-hô-va đã giơ ra hại mẹ.
14 N a ka puaki ano to ratou reo, a ka tangi. Na ka kihi a Oropa i tona hungawai; ko Rutu ia i piri ki a ia.
Hai nàng lại cất tiếng lên khóc. Đoạn, O
15 N a ka mea ia, Nana, kua hoki tou taokete ki tona iwi, ki ona atua: hoki atu, whaia tou taokete.
Na-ô-mi nói cùng Ru-tơ rằng: Nầy, chị con đã trở về quê hương và thần của nó; con hãy trở về theo nó đi.
16 N a ka mea a Rutu, Kaua ra e tohe ki ahau kia whakarerea koe, kia hoki atu i te whai i a koe; ta te mea ka haere ahau ki tau wahi e haere ai, ka noho hoki ki tau wahi e noho ai; ko tou iwi hei iwi moku, ko tou Atua hei Atua moku;
Ru-tơ thưa rằng: Xin chớ nài tôi phân rẽ mẹ; vì mẹ đi đâu, tôi sẽ đi đó; mẹ ở nơi nào, tôi sẽ ở nơi đó. Dân sự của mẹ, tức là dân sự của tôi; Đức Chúa Trời của mẹ, tức là Đức Chúa Trời của tôi;
17 K a mate ahau ki te wahi e mate ai koe, ka tanumia hoki ki reira: kia meatia tenei e Ihowa ki ahau, etahi atu mea ano hoki, ina, ko te mate anake hei wehe i a taua.
mẹ thác nơi nào, tôi muốn thác và được chôn nơi đó. Ví bằng có sự chi khác hơn sự chết phân cách tôi khỏi mẹ, nguyện Đức Giê-hô-va giáng họa cho tôi!
18 A , i tona kitenga e u ana tona ngakau kia haere tahi raua, mutu ake tana korero ki a ia.
Na-ô-mi thấy nàng quyết định theo mình, nên không nói nữa.
19 H eoi haere ana raua tokorua, a tae noa ki Peterehema. A, ka tae raua ki Peterehema, na ka oho katoa te pa ki a raua, ka mea nga wahine, Ko Naomi tenei?
Vậy, hai người đi đến Bết-lê-hem. Khi hai người đến, cả thành đều cảm động. Các người nữ hỏi rằng: Aáy có phải Na-ô-mi chăng?
20 N a ka mea ia ki a ratou, Kaua ahau e karangatia, ko Naomi; ko Mara ta koutou e karanga ai ki ahau: he kawa rawa hoki ta te Kaha Rawa mahi ki ahau.
Người đáp: Chớ gọi tôi là Na-ô-mi, hãy gọi là Ma-ra, vì Đấng Toàn năng đã đãi tôi cách cay đắng lắm.
21 K i tonu ahau i toku haerenga atu; na kua whakahokia kautia mai e Ihowa. Na te aha ahau i karangatia ai ko Naomi e koutou, kua whakaaturia nei hoki toku he e Ihowa, kua tukinotia ahau e te Kaha Rawa?
Tôi đi ra được đầy dẫy, nhưng Đức Giê-hô-va dắt tôi về tay không. Đức Giê-hô-va đã giáng họa cho tôi, và Đấng Toàn năng khiến tôi bị khốn khổ, vậy còn gọi tôi là Na-ô-mi làm chi?
22 H eoi hoki mai ana a Naomi raua tahi ko tana hunaonga, ko Rutu Moapi: hoki ana i te whenua o Moapa; a haere ana ki Peterehema i te timatanga o te kotinga parei.
Na-ô-mi và Ru-tơ, người Mô-áp, dâu của Na-ô-mi, từ ở xứ Mô-áp trở về là như vậy. Hai người đến Bết-lê-hem nhằm đầu mùa gặt lúa mạch.